TP Lễ hội lần đầu tôi được nghe là từ câu chuyện của nhạc sĩ Đào Đăng Hoàn, thời làm Giám đốc Sở VHTT Phú Thọ. Đào Đăng Hoàn mê cái ý tưởng ấy lắm. “Đất Tổ năm nào cũng đón đồng bào cả nước về lễ Tổ. Đất Tổ còn nhiều lễ hội khác có nguồn gốc sâu xa từ thời Văn Lang dựng nước. Bây giờ thì có thể biến nơi đây thành TP của lễ hội, cũng là để bảo tồn di sản văn hoá Việt cổ hiện vẫn còn rõ nét”.
Là một người con đất Việt, tôi vui thật sự vì ngay trong hoạt động Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương, TP Việt Trì mở hội thảo về xây dựng TP Lễ hội. Mừng vì có thể nay mai cái trung tâm công nghiệp của vùng núi trung du phía Bắc này rồi sẽ thành TP của nền “công nghiệp không khói”, nói như cách của ngành Du lịch lâu nay, tức là vẫn có tiền mà không cần sản xuất công nghiệp, không lo ô nhiễm môi trường… Và có lẽ đây là lần đầu tiên có một hội thảo khoa học về quy hoạch kiến trúc mà thành phần khách mời phần đông lại là người làm sử, nhà nghiên cứu quản lý văn hoá, nghệ thuật. Nghệ sĩ Nhân dân Hải Ninh, hoạ sĩ Ngô Quang Nam, nhà sử học Lê Văn Lan, nhà khảo cổ học Trịnh Sinh, nhạc sĩ Thang Giang, nhà Hán Nôm học Phùng Bá Soạn… đều có tham luận, những cái tham luận ngỡ không mấy gần gũi quy hoạch kiến trúc mà lại rất cần cho TP mới này. Rồi thì có cả vị tiến sĩ về cây xanh và không gian đô thị… Ông Thị trưởng Việt Trì lãng mạn hay là ông chủ đề tài này thấy được tầm vóc văn hoá trong bố cục nội dung của TP tương lai? KTS Nguyễn Thế Khải – người có nhiều tâm huyết với các công trình kiến trúc đậm chất Việt đã vui vẻ nhắc tôi: Nhà báo chắc chưa quên đây xưa là Kinh đô Văn Lang? Vâng! Kinh đô Văn Lang cổ chính là vùng đất Việt Trì ngày nay. Mà làng Cả chính là cái tên gợi liên tưởng đến địa danh có tính chất xuất xứ người Việt cổ. Làng Cả như anh Cả của làng Việt, bên cạnh Ao Việt (Việt Trì). Vậy là tôi hiểu ý tứ của ông KTS. Theo ông Khải, TP thì đã có gần 50 năm. Nhưng có thể nào gọi là TP Lễ hội được, khi hội vẫn mở, lễ vẫn hành? Lâu nay nhắc đến Việt Trì là người ta nghĩ ngay đây là TP công nghiệp. Nó là một trong những trung tâm công nghiệp phía Bắc, bắt đầu từ chủ trương xây dựng TP từ đầu thập niên 60 thế kỷ trước. Gần năm mươi năm TP công nghiệp này đang “già” đi, đặc biệt trong cơ chế thị trường. Bây giờ người ta đua nhau mở nhà máy, KCN, KCX ở nơi khác thuận hơn. Chả thế mà dọc đường Năm, đường Mười, đường Một… TP công nghiệp, KCN chen nhau san sát, cả ở nơi “bờ xôi ruộng mật”. Nơi đất cằn đá sỏi có lẽ vì xa xôi nên chả mấy khi nhà đầu tư ngó tới. Sầm uất Việt Trì của những năm 60, 70 thế kỷ XX đã lùi về dĩ vãng. Tôi trộm nghĩ chủ trương xây dựng TP Lễ hội, ấy là lúc người đất Tổ bừng tỉnh trên khối tài sản vô giá của mình là bề dày văn hoá, là di sản cha ông. Tài sản ấy nhiều nơi biến thành tiềm năng phát triển. Vâng! Việt Trì bừng tỉnh và chuyển hướng đi phát triển kinh tế gắn du lịch là đúng đắn và tỉnh táo. Và các nhà khoa học đã nói hết quan điểm cá nhân, đã phản biện thẳng thắn và chân thành. Nhiều vấn đề “vỡ ra, sáng ra” như ông Thị trưởng Nguyễn Quốc Liên nhận định. Tôi “sướng” nhất là phần phản biện. Tính cách các nhà khoa học đúng nghĩa là thế. Nói thật, nói hết để sáng tỏ một vấn đề, một quan điểm. Báo cáo tóm tắt quy hoạch TP Lễ hội nơi ngã ba sông chính là phác thảo bức tranh vùng đất cổ Việt Trì. Nơi ấy giàu tiềm năng văn hoá hơn là công nghiệp. Nơi ấy có đến 173 di tích cổ, mà cổ nhất có thể nói là những di tích khảo cổ. 23 điểm khảo cổ trên 23 xã phường đã nói hộ về gốc gác của cả dân tộc mình. Nào gò Mun, gò De, làng Cả… Lại còn thống kê cả những món ẩm thực Việt cổ nơi này cùng với nghệ thuật Xoan Ghẹo, Trống quân, và cả truyện cười Văn Lang. Và trên hết văn minh Đông Sơn thời đại Vua Hùng là Trống đồng. Rồi lễ hội nơi này ắt hẳn khác và trọng hơn với Lễ hội đền Hùng đã được Nhà nước nâng lên thành Quốc giỗ, hàng năm có 3 – 4 triệu người hành hương về đất Tổ. Hội nhiều không kể hết: Hội rước Chúa Gái, Rước ông Khưu – bà Khưu; Hội đền Tam Giang; Hội Tịch Điền, Hội Linh tinh Tình phộc… Có cả lễ hội bánh chưng bánh dày. Ẩm thực Việt Trì còn có cá Anh Vũ tiến vua khiến người về đất Tổ ghé lại quán cá ven sông đãi nhau bữa cá cho thoả cái công lặn lội tìm về… Đất trời như cũng muốn giao hoà ở nơi này nên đem sông Đà, sông Lô nhập về nhau để đứng nơi này thấy non nước hùng vĩ quá, tươi đẹp quá… Vâng, xét về điều kiện, Việt Trì thừa sức để xây dựng TP Lễ hội. Nhưng xây cái gì, xây thế nào, ở đâu? Bài toán đã được giải bởi đề án quy hoạch TP. Và các nhà khoa học đã phản biện. Họ nói rằng tính khả thi của một TP du lịch lễ hội văn hoá là cần nhất yếu tố sạch. Trong khi chưa có đề án nào giải quyết vấn đề đưa các cơ sở công nghiệp trong TP đi. Rồi thì khi đang xây dựng nâng cấp di tích Đền Hùng thì lại cấp phép cho Nhà máy Xi măng Hữu Nghị ngay cạnh đấy, để bây giờ dân đi lễ phải ngửi khói độc. Lại có người nhắc lời một chuyên gia Nhật Bản khi được mời sang khảo sát TP Lễ hội, vị chuyên gia đã nói rằng: Hễ thấy nơi nào có khói công nghiệp là chúng tôi không đến. Vậy là bài toán mới, bài toán môi trường đã được đặt ra. TP có lẽ ưu ái các vị khách đi tìm phác thảo TP mới cho mình nên cho ở Khách sạn Hồng Ngọc 2. Ở thì hơi sang, nhưng mà không dám ra khỏi phòng vì… sợ khói. Thì ra đối diện với khách sạn là Nhà máy Hoá chất Việt Trì. Chả thế mà trong tham luận của Tổng thư ký Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam – KTS Huỳnh Đăng Hy – ông đã đề nghị di chuyển các cơ sở công nghiệp độc hại dọc dải đất ven sông Hồng và sông Lô để trồng rừng cây xanh. Điều đang “ám ảnh” trong tư duy về TP Lễ hội có lẽ là vấn đề Kinh đô Văn Lang. Chả ai biết hình hài nó ra làm sao nhưng mà khi làm du lịch trên nền lịch sử, người ta đã phải phục dựng lại thành quách, đền miếu, rồi nơi nào vua dạy dân cày cấy, nơi nào luyện quân, nơi nào dựng Lầu kén rể… Còn phải có nơi giã gạo xay lúa, giã bánh dày, gói bánh chưng như thật. Sản phẩm du lịch và lễ hội văn hoá phải có quà của Lang Liêu, có bánh của Nàng Út, và Kinh đô Văn Lang thì trung tâm là làng Cả. Nhà khảo cổ học Trịnh Sinh đề xuất: Làng Cả, gò De phải được khoanh vùng bảo vệ vĩnh viễn, xây dựng nhà che các hố khai quật để bảo tồn di chỉ. Rồi thì xây lên đó bảo tàng khảo cổ bày đồ đồng Đông Sơn và di vật thời Hùng Vương để du khách đến xem, chứng minh sự có mặt họ trên Kinh đô cổ đại Văn Lang. Một bảo tàng ngoài trời tại làng Cả nghe đâu đã có ý tưởng và quy hoạch rồi nhưng chả biết ai làm. Ông Trịnh Sinh còn đề nghị xây dựng thêm khu Tưởng niệm các Vua Hùng, phục dựng Kinh đô Văn Lang để du khách đến đây lễ bái, chiêm ngưỡng cội nguồn nước Việt trước khi lên đền Hùng dự hội. Rồi thì có thêm Bảo tàng trống đồng mini. Một cái trống Đông Sơn phục chế, đặt trong một cái hố khai quật, có nhà kính che chắn bảo vệ nghiêm ngặt cũng gợi trí tò mò. Rồi thì đúc mô hình trống đồng nhỏ làm quà lưu niệm như một thứ chỉ có ở Việt Trì… Tôi lại nhớ dạo Phú Thọ tổ chức hội thảo quốc gia đi tìm di sản văn hoá thế giới đề nghị UNESCO công nhận. Cái hội thảo ấy lúc đầu đặt vấn đề di tích lịch sử văn hoá đền Hùng và di tích khảo cổ. Nhưng phản biện cho biết không thể làm hồ sơ khi các di tích khảo cổ không được bảo vệ, bảo tồn đúng cách. Cổ vật thì đem về bảo tàng bày, hố khai quật thì để hoang tàn, thành bãi thả trâu bò. Rồi một phần làng Cả – nơi lưu dấu Kinh đô Văn Lang – đã bị cắt cho nhà máy MIWON… Có đại biểu đề nghị dựng đàn Nam Giao thay cho tháp Hùng Vương. NSND Hải Ninh thì bảo chả biết có được nhìn thấy cái TP đang bàn không vì năm nay ngót tám chục xuân rồi. Ông đề nghị dựng tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ mỗi bên dẫn 50 người con xuống bể và lên rừng, dáng dấp hoang dã dọc lối lên đền Hùng như đang đón du khách về lại cội nguồn. Rồi TP ấy có thêm một Trung tâm điện ảnh Hùng Vương làm nơi chiếu phim, dựng phim lịch sử phục vụ du khách… Đi tìm phác thảo TP Lễ hội ngã ba sông, chúng ta tin là đã làm là được. Có TP, có lễ hội rồi. Điều căn bản là quyết tâm làm của người đất Tổ, biết thay đổi, biết làm sạch TP công nghiệp mà công nghệ cũ từng tồn tại nửa thế kỷ nay để nơi đây rước con dân nước Việt về cội nguồn lễ bái tham quan, rước bè bạn năm châu đến thăm đất Tổ của nước Việt mến yêu… Việt Trì – Hà Nội 4/2009. |
Phác thảo thành phố Lễ hội ngã ba song
214
previous post


