Không có quy hoạch sân golf trong bất cứ quy hoạch của chuyên ngành nào để giới thiệu địa điểm cho chủ đầu tư.
Những vấn đề về sân golf chiếm đất nông nghiệp, gây ô nhiễm môi trường, tạo sự bất bình đẳng xã hội… không còn là mới, mà từ những nhận định có tính khoa học, các chuyên gia đưa ra những ý kiến xác đáng.
GS Huỳnh Đăng Hy (Viện Quy hoạch và Phát triển đô thị): “Sai lầm là chúng ta quy hoạch không hợp lý, hay nói đúng hơn là đến nay vẫn chưa có ai quản lý quy hoạch sân golf”. GS Lê Văn Tiềm: “Ô nhiễm môi trường do sân golf gây ra không đáng kể. Nó không thể nặng như các KCN, nhất là KCN nằm trong lõi đô thị; cũng không thể hơn sản xuất nông nghiệp về sử dụng phân bón, hóa chất… TS Lê Trọng Bình (Viện Quy hoạch du lịch, Bộ VHTT&DL): Hiện sân golf và dự án sân golf không nằm trong quy hoạch. Nếu có quy hoạch sân golf, khi dư luận phản ứng, Chính phủ sẽ có căn cứ để rà soát và điều chỉnh. Như vậy, vấn đề sân golf sẽ không bức bối như thời gian qua. GS Tôn Gia Huyên (Hội Khoa học Đất Việt Nam): Quy hoạch phát triển sân golf trên phạm vi cả nước phải đi trước một bước; ngành VHTT&DL cần nghiên cứu kỹ, dự báo tốt tình hình để có thể trả lời chuẩn xác mấy câu hỏi cơ bản sau đây: Cần dựa vào những tiêu chuẩn nào để phát triển thêm 1 sân golf ? Vùng nào điều kiện đất đai và lao động không cho phép phát triển sân golf ? Ở các mốc thời gian 2010, 2020, 2050… thì Việt Nam cần có bao nhiêu sân golf là vừa? Dựa vào những chỉ dẫn này, các ngành, địa phương bố trí một kế hoạch phát triển sân golf cụ thể. Với kinh nghiệm của một chuyên gia nghiên cứu về đất đai, GS Tôn Gia Huyên (Chi hội Khoa học đất, Hội Tài nguyên Môi trường) cho biết, hiện cả nước có 144 dự án (số liệu của Tổng cục Quản lý đất đai là 139) có mục tiêu kinh doanh sân golf đã được cấp phép hoặc có chủ trương cho phép nghiên cứu thực hiện thuộc địa bàn của 38 tỉnh thành. Trong 2 năm (1/7/2006 – 4/6/2008) có thêm 106 dự án sân golf, tăng 13 lần so với 16 năm trước cộng lại. Nếu cả 144 dự án này đều trở thành hiện thực thì phải bố trí vào đây 44.584ha đất. Trong 76 dự án đã và đang triển khai thì tổng diện tích chiếm đất là 23.832ha, trong đó có 9.847 ha đất nông nghiệp với 1.847 ha đất trồng lúa nước. Bình quân diện tích đất tự nhiên Việt Nam tính theo đầu người rất thấp (đứng thứ 180/200 nước). Do vậy, không thể lấy đất trồng lúa, đất “bờ xôi ruộng mật” làm sân golf. Ông Huyên cũng cảnh báo, những tỉnh thuần nông như Hưng Yên, Đồng Tháp… không thể làm sân golf. Các ý kiến tại hội thảo cũng chỉ ra rằng, việc xây dựng các sân golf nên chọn những khu đất xấu, sa mạc hóa, đất bãi ven sông trong đô thị (nhằm giữ cảnh quan và quỹ đất)… để làm. Như ở Nhật Bản, địa hình nhiều đồi núi, họ có tới 2.400 sân golf. Nhưng ở Nhật không xảy ra tình trạng lấy đất của nông dân để làm sân golf, mà hầu hết lấy đất không canh tác được và đất KCN.
Vẫn theo GS Huyên, hiện chưa có một quy hoạch tổng thể cho phát triển sân golf. Việc hình thành hệ thống sân golf hiện nay thể hiện tính tự phát rất rõ, phần lớn là phụ thuộc vào “sáng kiến” của các nhà đầu tư. Trong số 139 dự án sân golf được thống kê thì chỉ có 41 dự án (7.095ha) là được ghi rõ trong quy hoạch, còn lại là hoàn toàn không có trong quy hoạch (57 dự án/18.746ha) hoặc lấn vào diện tích dành chung cho hoạt động thể thao, vui chơi giải trí, du lịch, cảnh quan môi trường (41 dự án/15.071ha); khi gặp phải những trường hợp này, theo quy định, địa phương phải thực hiện những thủ tục điều chỉnh quy hoạch nhưng trên thực tế đã không thực hiện, nếu có thì cũng chưa đủ cơ sở để có thể quyết định được chuẩn xác. Mặt khác, nếu theo tiến độ như thời gian vừa qua thì 144 dự án này không thể hoàn thành trước năm 2050 (?!) Việc phân bố sân golf cũng chưa được nghiên cứu thấu đáo, trước mắt còn tập trung chủ yếu vào các khu phát triển(?). Đồng quan điểm này, PGS.TS.KTS Nguyễn Hồng Thục (ĐH Kiến trúc Hà Nội) chỉ thêm: Hiện sân golf không thuộc ngành nào quản lý. Bởi các bộ chủ quản được lập quy hoạch sử dụng đất cho ngành mình như Bộ Xây dựng, Bộ TN&MT, Bộ VHTT&DL… đều không đưa sân golf vào danh mục. Do vậy, chắc chắn sẽ không thể có quy hoạch sân golf trong bất cứ một quy hoạch của chuyên ngành nào để giới thiệu địa điểm cho chủ đầu tư. Kéo theo sẽ không có những quy chuẩn kỹ thuật xây dựng cho từng loại hình sân golf. Từ thực tế của mình, bà Thục cho biết, sân golf là một loại kiến trúc cảnh quan có diện tích lớn, nên được coi như đất công viên cây xanh của đô thị hoặc khu thể thao vui chơi giải trí cuối tuần cho cộng đồng người đô thị – vốn đang bị sống thiếu cây xanh, giao tiếp, thể thao (tiêu chuẩn là 15-18% đất xây dựng, Việt Nam mới đạt 2%). Nhưng bà Thục cũng lưu ý: Cần lựa chọn địa điểm xây sân golf có thể được đáp ứng nguồn nước (như cạnh các con sông và hồ lớn. Sông Hàn ở Hàn Quốc cách đây 30 năm chỉ xây đường cao tốc dọc 2 bờ sông. Nhưng nay tại các đô thị mới hai bên sông là công viên và sân golf dành cho thể thao, vui chơi cuối tuần. Dòng sông trở thành không gian mở và không gian cộng đồng cho Seoul với 10,5 triệu dân sinh sống là một ví dụ đáng học tập. Hơn nữa, các tiêu chuẩn xây dựng xanh, trong đó có sân golf đang được hoàn thiện với tiêu chuẩn môi trường, nước cấp, nước thải. Khi xây sân golf, các tính toán về tác động môi trường từ mặt trái của hoạt động giải trí này cũng đã được tính đến. 8 Đề xuất quy hoạch phát triển sân golf 1- Quy hoạch phát triển hệ thống sân golf như là một ngành công nghiệp, hướng tới mục đích chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo cơ bản. 2- Quy hoạch phát triển hệ thống sân golf như là một phần tử cấu thành trong quy hoạch phát triển khu đô thị, công nghiệp, du lịch với mục đích tạo ra các không gian xanh, hình thành các khu đô thị mới, đẹp, thân thiện với môi trường. 3- Quy hoạch phát triển sân golf không chỉ vì mục đích lợi nhuận kinh tế mà còn phải vì nhu cầu phát triển sức khỏe của cộng đồng, vì sự phát triển ngành thể thao golf quốc gia. Vì thế, nhất thiết phải hình thành hệ thống các sân golf công cộng giá rẻ do Nhà nước đầu tư. 4- Quy hoạch phát triển sân golf phải phù hợp với nhu cầu thực tế của địa phương theo từng thời kỳ phát triển, đúng theo quy luật cung cầu của thị trường. 5- Cấp phép xây dựng sân golf cũng như các dự án khác đều phải quán triệt chủ trương tận dụng, tiết kiệm, chắt chiu quỹ đất như là một yêu cầu tối quan trọng bắt buộc. 6- Đối với việc thu hồi đất để cấp cho các dự án phát triển đô thị, công nghiệp, nghỉ dưỡng, cần thiết phải thay đổi chính sách đền bù cho các chủ sở hữu phù hợp với giá thị trường, từng bước cho phép các chủ sở hữu góp cổ phần trong các dự án bằng giá trị quyền sở hữu đất. 7- Phải có chính sách đào tạo nghề, tìm kiếm công ăn việc làm, đảm bảo đời sống ổn định lâu dài cho những người bị thu hồi đất để phát triển dự án. 8- Chính sách quy hoạch phát triển ngành công nghiệp golf Việt Nam phải có tính biện chứng, thích nghi, phù hợp với từng giai đoạn phát triển. |
Không ai quy hoạch sân golf
314


