|
Kỳ 1: Xác định “lõi kinh tế” của từng vùng
Ngày 4/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 800/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2010 – 2020. Đây là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế – xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng. Mục tiêu là xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; xây dựng NTM theo định hướng XHCN.
phát huy nội lực gắn với văn hóa làng xã Người ta thường nói “giúp con cá không bằng giúp cái cần câu”, nhưng khi thực hiện hầu hết các dự án nhà nước, lại vẫn quen đường mòn “cầm tay chỉ việc” cho nông dân, tức là vẫn quen tư duy và làm ăn theo kiểu dự án, nên khi tiêu hết tiền thì khó duy trì được kết quả ban đầu. Đây là sự khác biệt cơ bản với các dự án của các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong và ngoài nước. Các dự án phi chính phủ không bao cấp vốn cho người dân, mà dùng dự án “làm mồi” để người dân phát huy nội lực của mình. Rất nhiều chương trình, dự án đầu tư vào nông thôn thường chú trọng vào các công trình xây dựng cơ bản, thiếu đi sự quan tâm đúng mức đến đời sống văn hóa làng xã, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi lẽ trải qua bao cuộc thăng trầm, nhưng tầng tầng lớp lớp văn hóa giống như các lớp trầm tích nghìn năm lắng đọng sâu nhất và bền vững nhất ở nông thôn; còn ở thành thị mỗi khi vật đổi sao dời dễ phát triển, dễ cách tân, nhưng lại cũng dễ mất mát, dễ biến dạng văn hóa dân tộc. Cho nên, muốn tìm cội nguồn văn hóa, bản sắc dân tộc, phải về nông thôn, là nơi chậm phát triển nên còn lưu giữ được cái hồn, cái gốc dân tộc. Ngày nay về nông thôn, đâu đâu cũng bắt gặp những công trình đình chùa, miếu mạo, những lễ hội tưng bừng, những ngôi nhà nhiều tầng, chứng tỏ đời sống vật chất có phần cải thiện rõ rệt. Nhưng vấn đề đặt ra là, các công trình kim có, cổ có như thế đã đảm bảo cho một đời sống tinh thần, văn hóa mang bản sắc dân tộc hay chưa? Nền tảng của văn hóa, của bản sắc dân tộc là gì, như thế nào, thì ít người để ý suy nghĩ. Bởi thế, đã xảy ra những việc làm thiếu văn hóa, những hành động vô văn hóa, thậm chí bạo liệt, băng hoại xã hội, trong đó có nông thôn, kể cả ở những “làng văn hóa”, “gia đình văn hóa”. Thiết nghĩ, cần xây dựng văn hóa làng xã trên cơ sở hương ước vừa có tính kế thừa tinh túy dân tộc, vừa có bổ sung nội dung văn minh thời đại mới.
Đánh thức tính năng động tiềm tàng của người dân Nói gì, bàn gì thì chung quy vẫn phải đi vào những đòi hỏi thiết yếu nóng bỏng thời sự. Đó là: Tổ chức sản xuất ra sao để nâng cao thu nhập và đời sống người dân? Làm gì để thu hút đầu tư về nông thôn? Chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ cho người dân bằng cách nào? Không thể ngồi một chỗ mà quy định thể thức cho thực tế ở địa phương, cũng như không thể hô hào chung chung lòng yêu nước, trong thời buổi kinh tế theo cơ chế thị trường, luôn luôn có xung đột lợi ích giữa các nhóm người khác nhau trong xã hội. Chính quyền thấu hiểu nguyện vọng chính đáng của dân sẽ đề ra cơ chế đúng, và tự khắc người dân sẽ nảy ra nhiều giải pháp hợp lý và hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, trong xây dựng xã hội. Đấy là tính năng động của người dân, là sức sáng tạo mãnh liệt tiềm tàng của người Việt Nam từ đời này sang đời khác. Sức sống kỳ lạ của các làng nghề Đa Hội luyện sắt thép, Đồng Kỵ làm đồ gỗ mỹ nghệ, phong Khê làm nghề giấy… ở Từ Sơn – Bắc Ninh; sức sáng tạo của làng Dương Liễu (Hoài Đức – Hà Nội) từ chỗ chế biến sắn đơn giản, chỉ một thời gian ngắn đã biến cả một vùng quê thành tổ hợp chế biến nha, bánh kẹo có thị trường rộng lớn. Sức sống đó dễ thấy ở hàng trăm làng nghề như Cát Quế, Hữu Bằng, Đa Sĩ, Bình Đà, hàng loạt huyện dày đặc nghề như Thanh Oai, Ứng Hòa, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Thường Tín… của Hà Nội, cũng như ở các tỉnh Thái Bình, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình… Hầu như tỉnh thành nào cũng lúng túng tìm việc làm cho nông dân, trong lúc lao động nông thôn bỏ làng ra thành thị kiếm sống, để lại ruộng đồng cho các cụ già, trẻ nhỏ và phụ nữ, gây xáo động và bất ổn về nhiều mặt ở nông thôn. Nhà nước đầu tư khoản tiền lớn để đào tạo nghề cho lao động nông thôn mỗi năm 1 triệu người. Liều thuốc này xem ra tốn kém, ít hiệu quả và thiếu bền vững, vì chạy theo chỉ tiêu số lượng, đặc biệt là không phát huy được sức sáng tạo của người dân. Bởi vì, đào tạo nghề mỗi năm 1 triệu người, nhưng chất lượng đào tạo ra sao? Liệu có bao nhiêu người sẽ có nghề? Cứ cho là cả 1 triệu người đó có nghề đi nữa thì họ sẽ làm việc ở đâu? Chắc chắn không thể vào được KCN và các nhà máy công nghệ cao chỉ cần rất ít nhân lực. Đã vậy, theo tính toán, mỗi năm ở nông thôn lại sẽ nảy sinh thêm 1 triệu lao động nữa, sẽ giải quyết tiếp ra sao? Kinh nghiệm từ các làng xã Việt Nam cho thấy, không thể sống no đủ chỉ trông vào sản xuất nông nghiệp, mà phải đa dạng hóa sản xuất bằng nhiều ngành nghề. Các làng nghề hiện vẫn tồn tại theo phương thức ấy, nhất là ở những nơi “nhất xã, nhất thôn”, mà xã Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Hà Nội là một ví dụ. Ngày trước, Hữu Bằng có HTX dệt vải, đến khi “đổi mới” giải tán HTX dệt, người dân chuyển sang nghề làm đồ gỗ chuyên phục vụ thị trường trong nước, không chạy đua xuất khẩu, vì thế luôn có đầu ra, không bị tác động của cuộc khủng hoảng, bây giờ càng phát triển trong phong trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Đáng quan tâm là không có người Hữu Bằng nào di cư làm ăn ở nơi khác, mà tất cả vẫn sinh sống, sản xuất, kinh doanh tại làng xã mình. Các cửa hàng buôn bán đồ gỗ ở nội thành Hà Nội về làng Hữu Bằng mua sản phẩm mang ra bán. Sản xuất, kinh doanh ổn định và phát triển, người dân Hữu Bằng không vay tiền ngân hàng, tự đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng đường sá, chợ búa, xây dựng các dãy phố có quy hoạch khang trang, đầy đủ tiện nghi hiện đại, xây dựng nhiều xưởng sản xuất, phát triển ngành nghề dịch vụ, có cả cửa hàng sản xuất bánh ga tô mừng sinh nhật… Thực tế sống động đó cho thấy người dân xã Hữu Bằng không cần ly nông, ly hương để kiếm sống, mà vẫn trụ vững trên mảnh đất quê hương, vẫn phát triển nông nghiệp, phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng thành công NTM theo định hướng XHCN. Họ cũng không cần phải vào Hà Nội mới đô thị hóa được nông thôn mình, không ỷ lại vào Nhà nước. Từ lâu năm, lâu đời, nhân dân và nông dân những nơi như thế đã biết lấy trung tâm kinh tế Hà Nội làm “cái lõi”, lấy Hà Nội làm điểm tựa để phát triển sản xuất, kinh doanh và kiến tạo đời sống ngày càng tốt đẹp. Tính năng động của người dân như ở Hữu Bằng có ở nhiều nơi tại Hà Nội như La phù, Ninh Hiệp, Kiêu Kỵ, Bát tràng…v
Kỳ sau: Giải pháp tận gốc |
Xây dựng nông thôn mới bằng cách nào?
394
previous post


