Hanoinet – Văn hóa kiến trúc Việt Nam = Kiến trúc xanh của TK 21 + Văn hóa kiến trúc nhiệt đới nóng & ẩm + các gia trị kiến trúc truyền thống Việt Nam. Để đánh giá mức độ các công trình kiến trúc Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng các tiêu chí “công trình xanh” hiện đại mà nhiều nước áp dụng, nhưng cần cụ thể hóa theo điều kiện khí hậu các vùng, miền Việt Nam.
Kiến trúc thế kỷ 21:kiến trúc bền vững
Ðã gần một thập kỷ chúng ta bước vào thế kỷ 21, đã qua một thế kỷ với nhiều tiến bộ vượt bậc về tăng trưởng kinh tế, về mức sống của người dân, về tốc độ đô thị hóa và đặc biệtvề khoa học – công nghệ, nhưng vì thế cũng song hành với nhiều nỗi lo, mà lớn nhất là sự nóng lên của Trái đất, sự thoái hóa các hệ sinh thái, ô nhiễm môi trường sống và tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt dần. Ðòi hỏi cấp bách của Thế kỷ mới đối với toàn nhân loại là biết sống một cách khôn ngoan, không tham lam, ích kỷ, sống vì hậu thế. Ðó là cách ứng xử văn minh, nhân đạo. Vì lẽ đó, ngành xây dựng thế giới đang hành động theo hướng “Công trình xanh/ Green Building”, với nội dung:
(1)Bảo tồn sinh thái, bảo đảm đa dạng sinh học,
(2)Bảo vệ môi trường: khí quyển, đất, nước
(3)Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệtlà nước, dầu hoả, than đá.
(4) Sử dụng năng lượng có hiệu quả, phát triển sử dụng năng lượng thiên nhiênvà năng lượng táI tạo.
(5) Môi trường vệ sinh và sức khỏe cho con người.
Một trong những vấn đề lớn của nước ta trong Thế kỷ 21 là Ðô thị hoá, làm cho mật độ dân cư tập trung tăng lên, tài nguyên, năng lượng tiêu thụ nhiều hơn, cung cấp nhiều hơn và chất thải cũng tăng lên, sưc ép môi trường (không khí, đất, nước) quá mức. Ðô thị hoá thu hẹpđất cây xanh, đuổi xa các loài sinh vật. Môi trường tự nhiên bị pha vỡ, con người sống giàu sang hơn, nhưng cô độc với muôn loài.
Nhà cao tầng là một giải pháp tất yếu và hữu hiệu, để cho con người có dư đất làm “chỗ thở”, nơi thư dãn trong “Phố phường chật hẹp, người đông đúc”, nhưng nó lại là nguyên nhân chính làm tăng “Hiệu ứng đảo nhiệt đô thị/ Urban heatIsland Effect”, làm nóng môi trường đô thị, tăng sử dụng năng lượng, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người dân.
Ði cùng với sự phát triển của xã hội, thế kỷ qua đã lần lượt xuất hiện các xu hướng kiến trúc lớn sau đây:
(1)Kiến trúc khí hậu, Kiến trúc sinh khí hậu (Climatic Architecture, Bioclimatic Architecture) nhấn mạnh sự thích ứng kiến trúc với khí hậu bản địa, tạo môi trường khí hậu trong nhà, nơi ở tiện nghi cho con người.
(2)Kiến trúc môi trường (Environmental Architecture), đòi hỏi công trình kiến trúc phải giảmáp lực lên môi trường, giảm và xử lý chất thải, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
(3)Kiến trúc sinh thái (Ecological Architecture), đòi hỏi kiến trúc phải không gây hoặc giảm tối thiểu ảnh hưởng tới hệ sinh thái, bảo đảm đa dạng sinh học.
(4)Kiến trúc có hiệu quả năng lượng (Energy – Efficient Architecture) đòi hỏi công trình kiến trúc phải sử dụng tối đa năng lượng thiên nhiên, giảm tối đa năng lượng hóa thạch bằng các chiến lược/ giải pháp kiến trúc (kiến trúc thụ động) hoặc công nghệ (kiến trúc chủ động).
(5)Kiến trúc thích ứng/ mềm dẻo (Adaptable Architecture). Công nghệ đang tiến nhanh đến mức không thể dự báo chính xác được. Vì vậy công trình kiến trúc phải làm sao không cần phá dỡ, chỉ cần cải tạo (càng ít càng tốt) là đáp ứng được.
Chính vì vậy Kiến trúc Thế kỷ 21 theo đuổi là Kiến trúc bền vững / Kiến trúc xanh” (SustainableArchitecture / GreenArchitecture), đó là lĩnh vực kiến trúc bao trùm các xu hướng kiến trúc nêu trên, như mô hình giới thiệu trên hình 1. Kiến trúc bền vững / Kiến trúc xanh” chính là kiến trúc đáp ứng được sự “Phát triển bền vững/ Sustainable Development” của nhân loại và là cách ứng xửcó văn hóa của những người thiết kế đối với sự biến đổi khí hậu Trái đất.
Mô hình Kiến trúc bền vững / Kiến trúc xanh
(Tác giả đề xuất năm 2008)
Xin nhấn mạnh rằng, trong mô hình này, kiến trúc khí hậu – thích ứng với khí hậu – được đặt ở giữa, như là cái nhân của Kiến trúc bền vững, bởi lẽ khi kiến trúc thích ứng nhất với khí hậu, thiên nhiên thì sẽ giảm bớt tiêu thụ năng lượng nhân tạo trong xây dựng và vận hành (KT hiệu quả năng lượng), thân thiện với môi trường (KT môi trường), tạo thuận lợi cho phát triển các hệ sinh thái (KT sinh thái), tiên nghi và sức khoẻ cho con người (KT sinh khí hậu).
Kiến trúc truyền thống / dân tộc
1-Nguồn gốc của kiến trúc truyền thống
Ðã có nhiều nghiên cứu, bài viết về Kiến trúc truyền thống/ dân tộc Việt Nam, nhưng để chỉ ra cụ thể“Bản sắc Kiến trúc dân tộc Việt Nam là gì (?)” khó đạt được đồng thuận cao. Một vài người cho rằng phải có mái ngói, mái cong mới là kiến trúc VN, hay kiến trúc nho nhỏ, xinh xinh như Thành phố Bắc Ninh hiện nay đậm chất VN hơn ?
Và trong kiến trúc hiện đại hôm nay, đặc biệt trong nhà cao tầng có thể áp dụng những gì từ Kiến trúc truyền thống / dân tộc ?
Giống như mọi nơi trên thế giới, kiến trúc truyền thống VN bắt nguồn từ điều kiện thiên nhiên, khí hậu, (nhiệt đới, ẩm ướt, gió mùa, gần biển), lao động (nông nghiệp), phong tục, tập quán, văn hoá (lúa nước á đông), tín ngưỡng (Phật giáo, Nho giáo), trên cơ sở của một nền kinh tế (nghèo), khoa học công nghệ (thủ công, lạc hậu) được con người vận dụng khéo léo, thông minh, sáng tạo, độc đáo và được nhiều người, nhiềuthế hệ bắtchước, noi theo.
Trong đó hai yếu tố quyết định nhất“phong cách kiến trúc” (architectural style) là khí hậu, thiên nhiên và công nghệ xây dựng.
Công nghệ xây dựng
Khí hậu VN
Lại do lãnh thổ VN tuy không lớn nhưng kéo dài tới15 vĩ độ (
Miền Bắc
Miền Nam với MT hoạt động theo kiểu Xích đạo, không còn ảnh hưởng của gió lạnh cực đới nên chỉ có một mùa nóng quanh năm, nhưng nhờ có biển nên nhiệt độ không quá cao. Gió mát và không còn tính hướng rõ rệt.
Miền Trung, hẹp mà kéo dài theo bờ biển nên khí hậu có tính chuyển tiếp từ Bắc vào
Ngoài ra các vùng núi cao, hải đảo khí hậu cũng có những nét riêng biệt.
Những đặc điểm này được phản ánh rõ rệt trong Kiến trúc truyền thống Việt
1-Phù hợp/ thích ứng khí hậu trong điều kiện kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, thô sơ.
2-Xuất phát tùe lao động, văn hoá, phong tục, tập quán, tôn giáo, nếp sống.
3-Sáng tạo theo thẩm mỹ á đông.
Dưới đây chỉ phân tích vài ví dụ:
(1)Nhà thấp / Tâng thấp (2m – 2,5 ít khi đạt 3m), người cao quá khổ vào nhà có khi phải khom người. Thật ra tâm lý người Việt là “Nhà cao cửa rộng”. Nhà thấp là bắt buộc đểchống bão, gió lốc dễ dàng.
(2)Hiên nhiều, rộng, mái đua lớn, nhiều không gian nửa kín / nửa hở.
(3)Hướng nhà chủ yếu để đón gió mát,
Nhưng nhà cao tầng mà quay lưng về Tây với diện tích lớn thì bất lợi, cần có giải pháp.
(4)Nhà ở dân gian Việt Nam đã quen sử dụng nhiều loại kết cấu che nắng,
Những mặt nhà phẳng, nhẵn, phơi nắng không phải là “phong cách Việt Nam”, nhưng ngày nay lại thấy khá phổ biến trong các kiểu nhà cao tầng!
(5)Nhiều cây xanh, cây leo phát triển cả bốn mùa.
(6)Mỗi làng, mỗi xóm đều có “nhà làng”
Văn hoá Kiến trúc việt nam Thế kỷ 21 ?
Khái niệm:Văn hoá kiến trúc / Architectural culture ?
Thuật ngữ Văn hóa kiến trúc không phải là mới, đã xuất hiện từ nhiều năm, nhưng tôi muốn được hiểu đầy đủ về nó.
Văn hoá kiến trúc là cách thực hành kiến trúc / ứng xử kiến trúc (đề ra các chiến lược, giải pháp thiết kế, các lựa chọn vật liệu, cấu tạo…)một cách khôn ngoan, có kiến thức, thông minh, sáng tạo thích hợp với khí hậu, thiên nhiên, công nghệ hiện đại và con người bản xứ.
Người ta đã nói đến:
Văn hoá kiến trúc giá lạnh (Frigid Architectural Culture):
Là văn hoá kiến trúc của vùng vĩ độ cao (Âu, Mỹ), khí hậu lạnh giá, ở đó để bảo đảm tiện nghi sống cho con ngưòi thì yêu cầu sưởi ấm là quan trọng nhất.
Một số giái pháp kiến trúc của Văn hoá kiến trúc giá lạnh là:
-Hình dạng toà nhà phẳng, nhẵn, nhiều kính, nhất là mái kính nằm ngang để lấy BXMT sởi ấm nhà, lấy ánh sáng tự nhiên.
-Nhà hợp khối, tường dày để giữ nhiệt.
-Cửa nhiều lớp, kín để giảm mất nhiệt. Khi công nghệ còn kém, cửa thường mở ít diện tích. Ngày nay khi xuất hiện các loại kính nhiều lớp, kính cách nhiệt, cửa sổ được mở rộng có thể hết cả mặt nhà. Nếu quá dư thừa ánh sáng, thì dùng rèm, mành che bớt từ phía trong, mà vẫn lấy được nhiệt cho nhàtheo “Hiệu ứng nhà kính” (BXMT sóng ngắn được bẫy vào nhà, cửa đóng không thoát ra được).
Nếu người thiết kế áp dụng các giải pháp này vào vùng nhiệt đới một cách máy móc, không phân tích sâu sắc thì công trình sẽ tiêu thụ nhiều năng lượng, không những phải sử dụng hệ thống ÐHKK, mà hệ thống này còn phải vận hành với công suất cao.
Văn hoá kiến trúc nhiệt đới / cận nhiệt đới (Tropical / Subtropical Architectural Culture):
Là văn hoá kiến trúc của vùng vĩ độ thấp, vùng nội chí tuyến. Do sự chi phối của hoạt động Mặt trời, khí hậu nóng gần như quanh năm. Lại được chia thành:
Văn hoá kiến trúc nhiệt đới / cận nhiệt đới nóng & ẩm ướt, và
Văn hoá kiến trúc nhiệt đới / cận nhiệt đới nóng & khô,
Ở đây để bảo đảm tiện nghi sống cho con ngưòi thì yêu cầu làm mát là quan trọng nhất, nhưng các chiến lược và giải pháp kiến trúc thậm chí lại trái ngược nhau.
Dưới đây chỉ đề cập Văn hoá kiến trúc nhiệt đới / cận nhiệt đới nóng & ẩm ướt, xuất hiện ở những lãnh thổ nằm gần biển như Việt
Những giải pháp kiến trúc thường thấy trong Văn hoá kiến trúc nhiệt đới / cận nhiệt đới nóng & ẩm ướt là:
–Mặt nhà thường lồi / lõm, sáng / tối để giảm bớt diện tích phơi nắng, giảm nhận nhiệt của BXMT.
–Trên cửa sổ phải có kết cấu che nắng. Tường ngoài bằng kính có thể lớn hay nhỏ, nhưng cần có che nắng hoặc giải pháp giảm BXMT trực tiếp vào nhà.
–Nhiều cây xanh chung quanh nhà, trên mặt đứng nhà, trên mái nhà, vừa là bộ lọc không khí, cung cấp Oxy, vừa che nắng, giảm bớt nhiệt độ và chói loá.
–Vỏ ngoài thoáng hở để đón được nhiều không khí mát mẻ, trong lành từ biển, từ rừng cây thổi tới. Không gian phân tán hoà nhập vào thiên nhiên,
–Tính phương hướng của nhà có vai trò hết sức quan trọng, xét đến BXMT, hướng gió (mát, nóng hoặc lạnh).
Văn hoá Kiến trúc Việt Nam
Theo phân tích ở trên có thể định nghĩa Văn hoá kiến trúc Việt
Văn hoá Kiến trúc Việt
+(2) Văn hoá kiến trúc nhiệt đới / cận nhiệt đới nóng & ẩm
+(3) Kết hợp với các giá trị kiến trúctruyền thống / dân tộc Việt
Ðể đánh giá mức độ các công trình kiến trúc thực hành theo Văn hóa kiến trúc Việt nam, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng các tiêu chí “Công trình xanh” hiện đại mà nhiều nước đang áp dụng như đã nêu ở phần thứ nhất, nhưng cần cụ thể hóa theo điều kiện khí hậu các miền/ vùng Việt nam. Phần cần thêm vào là những bắt buộc áp dụng hoặc sáng tạo được đúc rút từ kiến trúc truyền thống / dân tộc. Dưới đây xin đưa ra một vài suy nghĩ để người thiết kế và quản lý xây dựng tham khảo.
1-Vỏ nhàlàBộ lọc khí hậu
Vỏ nhà là kết cấu phân cách không gian trong và ngoài nhà. Không khí, ánh sáng, nhiệt muốn xâm nhập vào nhà phải đi qua vỏ nhà. Vỏ nhà có thể làm thiên nhiên thuận lợi bên ngoài tự do tràn vào nhà, có thể làm giảm / triệt tiêu tác dụng xấu của chúng, nhưng lại cũng có thể làm cho chúng trở nên trầm trọng hơn!
Vỏ nhà còn ngăn cản “tầm nhìn” từ trong nhà ra ngoài, mà “Côngtrình xanh” nhiềunước trên thế giới coi là mộttiêu chí đánh giá.
Nhiệm vụ của người thiết kế là tạo ra một bộ lọc – vỏ nhà tốt cho công trình. Cụ thể là:
(1)Ðón nhiều khí hậu / thiên nhiên thuận lợi, mát mẻ, dễ chịu. vào nhà.
(2)Cải tạo/ Giảm bớt bất lợi của tự nhiên: (nóng, lạnh, quá ẩm, quá khô, quá sáng / chói, gió mạnh, mưa lớn, ồn ào, bụi bặm, hôi hám, khó chịu).
(3)Giảm bớt sử dụng thiết bị, môi trường nhân tạo.
(4)Tạo môi trường khí hậu tốt nhất cho sức khoẻ con người, sinh vật trong nhà, trong vùng.
2- Vỏ nhà thể hiện “Phong cách kiến trúc” (architectural style)khu vực
Ân tượng đầu tiên về một công trình kiến trúc là từ vỏ nhà. Nếu muốn đưa thêm vào vỏ nhà những chi tiết sáng tạo thẩm mỹ truyền thống/ dân tộc, thì phải gắn kết một cách nhuần nhuyễn, không khiên cưỡng và đặc biệt không nên coi đó là tiêu chí đánh giá kiến trúc truyền thống (chỉ là sáng tạo thẩm mỹ).
Ðể vỏ nhà trong kiến trúc Việt Nam có thể / phải đáp ứng được công thức (a) cần nhiều sáng tạo thông minh của người thiết kế từ lúc sản xuất vật liệu, đến quy hoạch, kiến trúc công trình, thiết kế cấu tạo, chi tiết, cảnh quan chiều đứng, từ vị trí, hình dạng, phương hướng… Những biểu hiện sau đây là có tính đặc trưng.
(1)Giảm diện tích vỏ nhà phơi nắng: vỏ nhà mở, đón gió tự nhiên, không nhẵn, phẳng, cólồi / lõm, sáng / tối.Vỏnhà phẳng, sáng , chói sẽ không phải là nhà vùng nhiệt đới
Hình 1- So sánh các công trình xây dựng ở Việt nam (trên)
(2)Hình dạng nhà, mặt bằng nhà, hướng nhà hợp lý.
KTS. Ken Yeang (
Vậy là, nhà hình tròn, hình vuông 4 mặt giống nhau sẽkhông phải là nhà của vùng nhiệt đới. Nhưng mặt bằng nhà hình chữ nhật, hướng đông/ tây cũng không thích hợp với vùng nhiệt đới.
(3)Trên vỏ nhà thấy nhiềuhiên, ban công, vừa che / giảm BXMT, vừa thoáng gió.
Với nhà ở: kết hợp không gian xanh, mở rộng tầm nhìn đô thị.
Với nhà văn phòng, công sở: kết hợp không gian nghỉ ngơi giữa giờ, hút thuốc, uống trà, tiếp khách (cần đủ lớn), không gian suy nghĩ sáng tạo.
(4)Trên vỏ nhà có kết cấu che nắng: các loại che nắng cố định hoặc điều chỉnh được theo chuyển động của mặt trời, giảm độ chói. Kết cấu che nắng còn giúp lái gió đến vùng mong muốn trong nhà.
Nhà với kết cấu che nắng có nhịp điệu, kết cấu che nắng kết hợp pin mặt trời tạo thành
phong cách kiến trúc nhiệt đới (tropical style).và giảm bớt năng lượng tiêu thụ do làm mát và chiếu sáng. Hai công trình trên hình 2 cho ta cảm nhận đây là những tòa nhà ở vùng nhiệt đới, chúng còn có hiệu quả cao về năng lượng.
Hình 2- Toà nhà Bộ Giáo dục Singapore,tiết kiệm 30% năng lượng &
Cuc thuế Singapore tiết kệm 40% năng lượng
(5)Kính trong văn hoá kiến trúc Việt Nam:
Kiến trúc nhiệt đới không hạn chế dùng kính. Không nhất thiết đề ra tỷ lệ kính bao nhiêu là hợp lý. Nhưng khi sử dụng kính phải hạn chế tối đa BXMT trực tiếp (tia nắng) vào nhà bằng các kết cấu che nắng, sử dụng các loại kính có tính năng giảm bức xạ / cách nhiệt cao.
a.Kính hai lớp có khả năng cách nhiệt, cách âm cao hơn với điều kiện phải đóng kín (ví dụ đề ÐHNÐ).Khi đó có thể xẩy ra “Hiệu ứng Nhà kính / Green House Effect” làm tăng tải trọng lạnh của hệ thống ÐHKK. Vì vậy càng cần phải che nắng, mà phải che từ phiá ngoài.
b.Khi mở cửa thông gió tự nhiên thì không còn Hiệu ứng nhà kính, vẫn cần che nắng cho lỗ c