I- Hai năm 2008 – 2009, nhân dân ta, đất nước ta phải đương đầu và vượt qua nhiều khó khăn, thách thức gay gắt do những biến động bất thường và trái chiều của kinh tế thế giới, làm nặng nề thêm những yếu kém nội tại của nền kinh tế và làm hạn chế khả năng lựa chọn chính sách ứng phó và phát triển của chúng ta.
Bắt đầu là tình trạng lạm phát, giá lương thực, xăng dầu và giá hầu hết các mặt hàng nhập khẩu tăng mạnh, đẩy mặt bằng giá trên thị trường nội địa lên cao. Mặt khác, chính sách tài chính, tiền tệ được nới lỏng trong nhiều năm, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào thị trường chứng khoán tăng mạnh, tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng tăng cao, đặc biệt là năm 2007 và chúng ta lại buộc phải điều chỉnh một bước giá các mặt hàng than, xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường. Tác động tổng hợp của những yếu tố này đã làm chỉ số giá tiêu dùng ở nước ta tăng nhanh lên hai con số, cao hơn một số nước trong khu vực, sản xuất và đời sống gặp nhiều khó khăn, gây lo lắng và phân tâm trong xã hội. trước thực trạng đó, chúng ta đã đề ra mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu duy trì tăng trưởng hợp lý với 8 nhóm giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đột xuất này.
Từ tháng 9 năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế từ Mỹ đã lan rộng trên phạm vi toàn thế giới, tác động nghiêm trọng đến hầu hết các nền kinh tế và đã tác động rất tiêu cực đến nước ta, đặc biệt là xuất khẩu, nguồn vốn đầu tư, thu nhập du lịch và kiều hối, làm suy giảm tăng trưởng, đe doạ ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội.
Sớm nhận thức được ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng, từ đầu quý IV năm 2008, chúng ta đã chuyển mục tiêu từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ưu tiên ngăn chặn suy giảm tăng trưởng, coi trọng ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Chính phủ đã kịp thời ban hành các chính sách kích thích kinh tế, thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất phù hợp với thực tiễn nước ta để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, duy trì việc làm và bảo đảm tăng trưởng.
Nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cộng đồng doanh nghiệp, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của trung ương Đảng, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước, chúng ta đã thực hiện có kết quả mục tiêu tổng quát của từng năm. Lạm phát đã được kiềm chế, từ giữa năm 2008 tốc độ tăng giá giảm dần và năm 2009 giảm xuống còn 6,52%; tăng trưởng GDp năm 2008 đạt 6,23%. Năm 2009, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng âm, Việt Nam vẫn là một trong số ít các nước có tốc độ tăng trưởng khá cao, đạt 5,32%; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; an sinh và phúc lợi xã hội được coi trọng; chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; thế và lực của đất nước tiếp tục được tăng cường, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Kết quả Hội nghị các nhà tài trợ quốc tế vào tháng 12 vừa qua với mức cam kết tài trợ cho Việt Nam trong năm 2010 trên 8 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay, cho thấy cộng đồng quốc tế đánh giá cao đường lối đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý điều hành phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Qua hai năm đương đầu với những khó khăn thách thức đã cho chúng ta nhiều bài học và kinh nghiệm quý báu mà nổi lên là: (1) Muốn phát triển bền vững, phải giữ ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh doanh; (2) Huy động mọi nguồn lực cho đầu tư, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao là yếu tố quyết định để bảo đảm duy trì tăng trưởng và là nguồn lực vật chất để ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; (3) phải bám sát sự vận động của thực tiễn, diễn biến của thị trường, kịp thời điều chỉnh mục tiêu và giải pháp cho phù hợp khi tình thế đã thay đổi; đồng thời phải tổ chức chỉ đạo thực hiện khẩn trương và quyết liệt; (4) trong khi tập trung sức ứng phó với các thách thức khó khăn về kinh tế – xã hội, phải đặc biệt quan tâm bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và tăng cường công tác đối ngoại, tạo thêm môi trường và điều kiện thuận lợi cho ổn định và phát triển; (5) Sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội về mục tiêu và các giải pháp là động lực tinh thần quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra, nhất là trong tình hình phức tạp, khó khăn.
II- Năm 2010, tuy kinh tế thế giới đã có những chuyển biến tích cực nhưng tín hiệu phục hồi còn yếu. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo khoảng 3%, mức tăng này chủ yếu là do các nước kích cầu đầu tư và tiêu dùng nội địa; thương mại hàng hoá thế giới chỉ tăng 2,7% so với năm 2009. Những nền kinh tế phát triển, hiện là thị trường xuất khẩu chính và có vốn đầu tư lớn vào nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, tăng trưởng của các nền kinh tế này chỉ khoảng 1,3%, nhu cầu nhập khẩu được dự báo chỉ tăng 1,5%, thấp hơn mức tăng chung của thương mại thế giới[1]. Nhiều nước đang trong quá trình lựa chọn giữa một bên là tiếp tục chính sách kích thích kinh tế, nới lỏng tín dụng và một bên là thu hẹp các chính sách này. Đồng đô la Mỹ, đồng tiền chủ yếu trong thanh toán quốc tế đang biến động, tác động đến giá cả nhiều mặt hàng và các kênh đầu tư. Một số nền kinh tế đang có sự điều chỉnh mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng; chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng tăng lên. trong bối cảnh đó, với một nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới và còn phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố bên ngoài thì độ rủi ro và tính bất định sẽ còn rất lớn.
Đối với nước ta, năm 2010 là năm có ý nghĩa đặc biệt. Đây là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010 theo Nghị quyết Đại hội Đảng X, năm tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, năm kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, cũng là năm có nhiều ngày kỷ niệm và nhiều sự kiện quốc tế lớn được tổ chức ở Việt Nam. Vì vậy, việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2010 và hoàn thành Kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, tạo tiền đề thuận lợi cho việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 không chỉ là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên mà còn là đòi hỏi chính đáng của nhân dân cả nước.
Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã xác định mục tiêu tổng quát cho năm 2010 là: Nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009; tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010.
Tư tưởng chủ đạo trong điều hành phát triển kinh tế – xã hội năm 2010 là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó mà bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao hơn cả về số lượng và chất lượng đồng thời ngăn ngừa lạm phát cao trở lại. Và phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2009 sẽ tạo thêm điều kiện và nguồn lực để ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội tốt hơn.
trên tinh thần đó, trong khi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phấn đấu hoàn thành toàn diện mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu cụ thể của kế hoạch 2010, phải tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau đây.
Một là, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế
Ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất kinh doanh, ổn định xã hội và phát triển bền vững. Nguyên tắc cơ bản của điều hành kinh tế vĩ mô là phải tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, kết hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và giữa các công cụ của chính sách tiền tệ; xử lý phù hợp mối quan hệ giữa lãi suất tín dụng với tỷ giá và cán cân thanh toán quốc tế, đặc biệt là cán cân thương mại; quản lý tốt thị trường ngoại hối và nợ quốc gia; bảo đảm vốn và tính thanh khoản cho nền kinh tế; phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi; thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng, ngăn ngừa lạm phát và bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, ngân hàng.
phải phát huy tốt hơn vai trò điều tiết của Nhà nước, nhất là một nước đang trong quá trình chuyển đổi như nước ta, khi mà cơ chế thị trường chưa hình thành đồng bộ, các cân đối của nền kinh tế chưa thật vững chắc và môi trường cạnh tranh vẫn còn khiếm khuyết. Nhà nước can thiệp vào thị trường là để các quy luật của kinh tế thị trường được vận hành theo đúng mục tiêu mà không làm méo mó các quan hệ thị trường và để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Khi sử dụng các công cụ điều tiết phải hết sức chú ý đến mức độ và thời gian để đạt hiệu quả cao và chi phí thấp. phải lường trước các phản ứng của thị trường, nếu các phản ứng này có nguy cơ làm sai lệch những cân bằng cơ bản và gây mất ổn định kinh tế vĩ mô thì nhất thiết phải được điều chỉnh kịp thời.
Hai là, tập trung mọi nỗ lực thúc đẩy đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và tái cấu trúc nền kinh tế
Ổn định kinh tế vĩ mô tuy rất quan trọng nhưng không chỉ là vấn đề của bản thân chính sách. Chính sách tự nó không quyết định tất cả mà chỉ tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, huy động và phân bổ các nguồn lực, điều chỉnh các khả năng phát triển và định hướng cho các hoạt động của nền kinh tế. Khả năng điều hành kinh tế vĩ mô còn phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế và trên cơ sở tiềm lực kinh tế. Nếu tiềm lực kinh tế không đủ mạnh thì khả năng điều hành kinh tế vĩ mô sẽ bị giới hạn. Vì vậy, việc tháo gỡ mọi khó khăn, huy động các nguồn lực cho đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu là yếu tố quyết định nhất, phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển bền vững.
Nông nghiệp (bao gồm cả lâm, ngư nghiệp) có vai trò rất quan trọng trong xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu. Thị trường nông sản, nhất là những nông sản thiết yếu chịu ảnh hưởng ít hơn của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, lại là nhóm hàng có tác động lớn nhất đến mặt bằng giá của nước ta. phải tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao nhằm tạo ra nhiều sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tăng sức mua và nâng cao đời sống của nông dân. Biến đổi khí hậu, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh luôn đe doạ sản xuất nông nghiệp, phải làm tốt công tác phòng chống trên từng địa bàn để giảm tối đa thiệt hại.
phát triển công nghiệp với giá trị gia tăng cao là khâu trung tâm trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Để có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2009, phải tăng nhanh giá trị sản xuất và giá trị gia tăng của ngành công nghiệp. Sự sụt giảm sản xuất và tiêu thụ qua khủng hoảng cho chúng ta thấy rõ hơn khả năng cạnh tranh và nhu cầu của từng loại sản phẩm, ở từng thị trường. Các doanh nghiệp, các ngành, địa phương phải từ góc nhìn đó để bố trí sản xuất trong năm 2010. Hướng chính là tập trung cao hơn cho những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có tỷ trọng thị phần lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh, đi đôi với việc phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ; đồng thời phải theo dõi những diễn biến mới đang xuất hiện để chủ động điều chỉnh phù hợp.
Năm 2010, Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để kích thích tăng trưởng, đồng thời khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển sản xuất kinh doanh. Tăng đầu tư không chỉ tạo ra năng lực sản xuất mới, thúc đẩy tăng trưởng trong ngành xây dựng mà còn tạo ra thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, giải quyết việc làm và do đó có tác động lan toả đến toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề cấp thiết lúc này là đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đưa công trình vào sử dụng, tạo ra nhiều sản phẩm, qua đó mà góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư. Vì vậy, việc phân bổ vốn, tập trung các nguồn lực cho các công trình hoàn thành trong năm 2010 phải được thực hiện khẩn trương và nghiêm ngặt. phải kiên quyết chấm dứt tình trạng bố trí nguồn lực phân tán, làm thời gian xây dựng kéo dài, chi phí tăng cao, chậm đưa công trình vào khai thác, hiệu qủa thấp.
Nền kinh tế nước ta đang chuyển sang một giai đoạn mà các quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng, phức hợp và đan xen, chuyên môn hoá và hợp tác hoá ngày càng sâu rộng và do đó yêu cầu các loại hình dịch vụ ngày càng cao. Những năm vừa qua, khu vực dịch vụ có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng GDp, năm 2009 còn cao hơn mức tăng sản xuất công nghiệp, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho tăng trưởng kinh tế. Thực trạng này vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo ra khả năng phát triển nhanh các loại hình dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, thông tin, tư vấn, du lịch, thương mại, vận tải, dịch vụ logicstics…
Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thương mại là một trong những cân đối quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng. Mặc dù còn có những khó khăn do kinh tế thế giới phục hồi chậm nhưng tình hình là thuận lợi hơn năm 2009. Cần khai thác tốt hơn các thị trường truyền thống, các thị trường có Hiệp định mậu dịch tư do đồng thời phát triển các thị trường mới, nhất là các thị trường có nhiều tiềm năng ở khu vực Đông Âu, Tây Á – trung Đông, Châu phi, Mỹ la tinh. Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam – Nhật Bản có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2009 sẽ phát huy mạnh hơn trong năm 2010, Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN – trung Quốc với khoảng 90% số dòng thuế nhập khẩu của trung Quốc và 6 nước ASEAN được giảm xuống 0% từ đầu năm 2010 sẽ tạo điều kiện cho hàng Việt Nam tiếp cận thuận lợi hơn các thị trường rộng lớn này. Các doanh nghiệp cần tận dụng các cơ hội mới để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
Thị trường nội địa nước ta là một thị trường lớn, lại có tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định. Liên tục trong nhiều năm, doanh số bán lẻ hàng hoá và dịch vụ luôn tăng ở mức 10%, riêng năm 2009 tăng khoảng 12% (sau khi đã trừ yếu tố tăng giá); dịch vụ phân phối trên thị trường nội địa đóng góp khoảng 14% GDp, sử dụng hơn 5 triệu lao động, chiếm tỷ trọng cao nhất trong ngành dịch vụ. Các tập đoàn đa quốc gia đã và đang tích cực khai thác thị trường nội địa nước ta. Năm vừa qua, quán triệt quan điểm thị trường trong nước là cơ sở, thị trường ngoài nước là quan trọng và hưởng ứng phong trào người Việt Nam dùng hàng Việt Nam, thị trường nội địa đã có những khởi sắc mới. Các doanh nghiệp đã chú ý hơn đến khu vực thị trường này, người tiêu dùng Việt Nam đến với hàng Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, để chiếm lĩnh được thị trường nội địa, trước hết các doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh, quan tâm nhiều hơn đến thị trường nông thôn. phải làm ra các sản phẩm có chất lượng, phù hợp với từng đối tượng tiêu dùng và tạo ra bản sắc riêng khác biệt của hàng hoá Việt Nam. Song song đó, phải coi trọng phát triển hệ thống phân phối, coi hệ thống phân phối là cơ sở để xác lập mối liên kết giữa sản xuất, phân phối và tiêu thụ, đồng thời cũng là cơ sở cho việc hình thành kênh lưu thông ổn định. Các cơ quan quản lý nhà nước phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển hệ thống phân phối nhằm xây dựng các doanh nghiệp phân phối mạnh của Việt Nam. Điều này phải trở thành tư duy chính trị và hành động thực tiễn của lãnh đạo các ngành và các địa phương. Cần khắc phục tình trạng là trong khi rất quan tâm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến thiết lập cơ sở phân phối nhưng lại thờ ơ với các doanh nghiệp trong nước. Mỗi người Việt Nam, trước hết là những người lãnh đạo và quản lý cần quán triệt sâu sắc quan điểm đã được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng ta là: Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng. Thị trường nội địa, lực lượng doanh nghiệp trong nước là những yếu tố quan trọng hợp thành nội lực của đất nước ta.
phải tháo gỡ mọi khó khăn đang cản trở đầu tư và kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng thị trường; kiên quyết giảm các thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục có liên quan đến gia nhập thị trường, đầu tư, xây dựng cơ bản, kiểm tra hải quan, kê khai và nộp thuế…, góp phần giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. phải kiên quyết cắt giảm tối thiểu 30% các thủ tục hành chính hiện hành. Quyết tâm này của Chính phủ đang chuyển thành hành động của các bộ ngành và địa phương. Điều cần đặc biệt chú ý là phải bảo đảm tính đồng bộ trong hoạt động của các ngành, các cấp; một khâu yếu sẽ làm cản trở và kìm hãm chuyển động của cả hệ thống.
Cùng với cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho đầu tư sản xuất kinh doanh, Chính phủ sẽ hướng mạnh việc hỗ trợ tăng trưởng vào khu vực nông nghiệp và nông thôn, hoàn thiện cơ chế bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này tiếp cận tốt hơn với các nguồn lực phát triển.
trong khi tập trung mọi nỗ lực phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn và ngăn ngừa lạm phát cao trở lại, phải hết sức coi trọng chất lượng tăng trưởng. phải tăng cường công tác giám sát, quản lý chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện cơ chế quản lý và trả lương trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, tiền lương phải gắn với kết quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn, tài sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần rà soát lại các công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông, hoàn thiện quản lý, tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng, giảm chi phí trung gian, nâng cao hiệu suất sử dụng các nguồn lực, tăng hiệu quả của từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Khuyến khích phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước để làm tốt hơn vai trò trong ổn định kinh tế vĩ mô và nòng cốt trong tăng trưởng.
Để nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững, ngoài những việc cần làm ngay như trên, phải thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đây là điều kiện quyết định để nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Công việc này phải làm liên tục trong nhiều năm, gắn với quá trình tích luỹ nguồn lực trong từng doanh nghiệp, ở mỗi ngành sản xuất cũng như trong toàn bộ nền kinh tế; vừa phát triển tiệm tiến, vừa đi tắt – bắt kịp trong những lĩnh vực mà khoa học công nghệ thay đổi nhanh và chúng ta có điều kiện. Từ năm 2010 phải đẩy nhanh tiến trình này.
phải khẩn trương hoàn thiện các tiền đề, điều kiện cho tái cấu trúc. trước hết là hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, phát triển mạnh thị trường công nghệ, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; huy động các nguồn lực để xây dựng đồng bộ và hiện đại kết cấu hạ tầng. phải xác định rõ nội dung của tái cấu trúc, trọng tâm là tái cấu trúc các ngành sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với tái cấu trúc doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường nhằm tăng nhanh giá trị nội địa và giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ, phát triển lực lượng doanh nghiệp dân tộc, tạo dựng các doanh nghiệp Việt Nam có thương hiệu mạnh, có khả năng tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng chính là quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng chủ yếu từ dựa vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng là vốn, khai thác tài nguyên và nguồn nhân lực chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, chủ yếu dựa vào các nhân tố năng suất tổng hợp như khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại, qua đó mà nâng cao mức đóng góp của các yếu tố này vào tăng trưởng. Các doanh nghiệp cần nhận thức sâu sắc rằng trong thời đại khoa học công nghệ phát triển nhanh như hiện nay, các yếu tố năng suất tổng hợp có vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. trong quá trình này, Nhà nước tạo môi trường và điều kiện, còn cộng đồng doanh nghiệp phải là lực lượng quyết định.
trong năm 2010, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất tín dụng để doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, đổi mới thiết bị công nghệ phải luôn gắn liền với mô hình tổ chức và mô hình quản trị mới, tạo nên hiệu quả tổng hợp và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Ba là, tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, phấn đấu đạt được những bước tiến cụ thể trên các lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm này
trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị của chúng ta đã có nhiều cố gắng thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực xã hội và đã đạt được những kết quả nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực giảm nghèo, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, những kết quả này vẫn chưa vững chắc, tỷ lệ tái nghèo còn cao, việc giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc tiến bộ còn chậm. Những bất cập này làm hạn chế thành tựu của chúng ta. Nhân dân cảm nhận thành quả của phát triển kinh tế – xã hội một cách thực tế và cụ thể thông qua cuộc sống của chính mình và môi trường xã hội mà họ phải đối diện hàng ngày. Nhân dân đang đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tạo được chuyển biến thực sự trên những lĩnh vực này. Đây còn là tiêu chí quan trọng thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Không thể giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc trong một thời gian ngắn nhưng phải tạo được những bước tiến rõ rệt, tập trung vào một số vấn đề sau đây: (1) triển khai nhanh và có hiệu quả Chương trình giảm nghèo tại 62 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất, đi đôi với việc giảm tỷ lệ nghèo và chống tái nghèo ở các vùng khác; (2) Cải thiện điều kiện, chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, gắn liền với việc bảo đảm vệ sinh – an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường; (3) Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề; (4) phòng chống có kết quả nạn tham nhũng, các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; (5) Giảm tình trạng ùn tắc giao thông và ngập úng ở các đô thị lớn.
Biện pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ trên đây là hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế chính sách, tiêu chuẩn đánh giá và chế tài xử lý; tăng cường phổ biến và giáo dục pháp luật; thực hiện công khai và minh bạch; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; Nhà nước tăng đầu tư đi đôi với huy động mọi nguồn lực của xã hội; đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, trước hết là người đứng đầu, đồng thời phát huy tính tích cực của cả hệ thống chính trị tham gia vào việc giải quyết các nhiệm vụ bức xúc này.
Bốn là, nâng cao năng lực chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đưa chính sách và mục tiêu phát triển thành hiện thực trong cuộc sống
Một trong các chức năng cơ bản của lãnh đạo là tổ chức thực hiện. Kết quả tổ chức thực hiện thể hiện sức mạnh của bộ máy, bản lĩnh, năng lực của cán bộ và tính đúng đắn của cơ chế, chính sách.
phải tổ chức thực hiện khẩn trương và có hiệu quả, nói đi đôi với làm. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền từ trung ương đến cơ sở, nhất là người đứng đầu phải sâu sát và kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Chỉ đạo kiên quyết và tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết liệt để không những chuyển chính sách thành nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội mà còn giúp hoàn thiện chính sách ngày càng sát đúng hơn, phù hợp với yêu cầu của cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân. Thông qua tổ chức chỉ đạo thực hiện sẽ nẩy sinh những giải pháp mới, sáng tạo từ thực tiễn phong phú và sôi động ở từng lĩnh vực, địa phương và trong từng cơ sở.
Năm là, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền và phổ biến chủ trương chính sách, tạo sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội từ nhận thức đến hành động
phát triển là một quá trình vận động tổng hợp với nhiều mục tiêu, lại có sự gắn kết, tương tác giữa kinh tế, xã hội và môi trường, trong đó có những mục tiêu cụ thể trong ngắn hạn có thể là mâu thuẫn nhau. Toàn cầu hoá làm quá trình tái sản xuất mở rộng trong không gian và biến đổi nhanh theo thời gian, các động thái phát triển nhiều khi vượt qua khả năng dự báo và các mô hình tính toán. Hơn nữa, không một cơ chế, chính sách nào có thể bao quát mọi hiện tượng kinh tế – xã hội. Vì vậy, có những ý kiến khác nhau về một chính sách cụ thể nào đó cũng là điều bình thường. Quan trọng nhất là khi đã quyết định, phải tập trung mọi nỗ lực để thực hiện có kết quả các nhiệm vụ, giải pháp và mục tiêu đã xác định. phải công khai và minh bạch thông tin, làm rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác thông tin tuyên truyền phải vì lợi ích của đất nước, của nhân dân và phải kịp thời bác bỏ những thông tin thất thiệt; tạo ra nhận thức đúng đắn và sự đồng thuận xã hội cao, hành động theo cùng một hướng. Điều này càng cần thiết trong điều kiện nước ta vốn đi lên từ một nền sản xuất nhỏ, tư tưởng tiểu nông và tâm lý “đám đông” còn khá nặng nề. Thời gian qua chúng ta đã ngày càng làm tốt hơn yêu cầu này. Cần làm tốt hơn nữa trong thời gian tới.
*
Tình hình kinh tế thế giới đang biến động rất khó lường. Cần theo sát các động thái phát triển để có phản ứng chính sách nhanh nhạy và phù hợp nhằm tận dụng các thời cơ mới xuất hiện, đồng thời có giải pháp khắc phục những khó khăn mới nẩy sinh, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn và giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.
phải sâu sát thực tế, chỉ đạo và hành động quyết liệt, dám chịu trách nhiệm, đương đầu và vượt qua khó khăn, hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kinh tế – xã hội; gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, bảo vệ lợi ích chính đáng và chủ quyền quốc gia, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là sự chuẩn bị tốt nhất cả về tư duy phát triển và công tác nhân sự cho Đại hội đảng bộ các cấp, cũng là hành động thiết thực nhất để chào mừng Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng và các sự kiện trọng đại trong năm 2010
|
Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2009
1
Bài trước