Ngày 23/12/2008, công trường xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La trên sông Đà tiến hành chặn dòng đợt 2, phục vụ cho mục tiêu nút cống dẫn dòng và tích nước hồ chứa vào tháng 6/2010 phát điện tổ máy số 1 vào cuối năm 2010. Lần thứ 2, kể từ ngày chặn dòng đợt 1 (ngày 2/12/2005), trên công trường vang lên bài ca “Ta về ngăn sông Đà”. …Dẫu chỉ là ngăn một đoạn kênh dẫn dòng bờ phải, nhưng được chứng kiến sự kiện này, tôi thấy lòng mình xao xuyến lạ thường. Thấy tự hào hơn đối với những người thợ Sông Đà mà tôi coi là những người anh, người bạn. Lao động không mệt mỏi của những người thợ sông Đà hơn 3 năm trước đã làm nên một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử xây dựng thuỷ điện Việt Nam: Lễ khởi công cũng là lễ ngăn sông đợt 1. Hơn 1.000 ngày đêm sau đó vật lộn với rét lạnh, nắng gắt và lũ dữ, những người thợ của TCty Sông Đà lại lập nên một kỷ lục mới: làm chủ công nghệ đắp đập thuỷ điện bằng bê tông đầm lăn trong thời gian ngắn nhất, và lập kỷ lục về cường độ đổ bê tông đầm lăn, từ 120 – 180 nghìn m3/tháng. Cách đây một năm, ít ai nghĩ được đến tháng 12/2008, phần thân chính của đập thuỷ điện đã lên đến cao độ 151,5m, với 1,27 triệu m3 bê tông đổ xuống. Bởi vì, theo tiến độ, việc đắp đập phải làm từ tháng 11/2007. Nhưng mãi tới tháng 1/2008, công trường mới có thể bắt đầu. Đắp đập chậm 2 tháng khiến nhiều người lo cho khả năng phát điện tổ máy số 1 đúng tiến độ. Chứ chưa nói gì đến mục tiêu phấn đấu về đích trước 2 năm mà bây giờ đã được khẳng định. Tính ra, trừ ngày nghỉ, mỗi người thợ Sông Đà đã phải làm việc 100 đêm trong số 365 ngày đêm của năm. Vốn là người trầm tĩnh, kỹ sư Nguyễn Kim Tới – Phó Tổng giám đốc TCty Sông Đà, Giám đốc Ban điều hành dự án thuỷ điện Sơn La, cũng không giấu nổi xúc động khi nói với tôi: TCty Sông Đà đã hoàn thành đúng lời hứa với Đảng và Nhà nước. Trò chuyện với anh Nguyễn Kim Tới, tôi nhớ lại một ngày đêm liên tục, đầu tháng 11/2005, công trường vật lộn với cơn lũ bất thường đổ về. Nước mấp mé mặt đê quai phía thượng lưu kênh dẫn dòng. Nếu đê vỡ, hàng nghìn con người đang làm việc dưới lòng kênh và mặt đê quai có thể bị nước cuốn trôi. Và ngày khởi công công trình chặn dòng đợt 1 sẽ bị lùi lại. Toàn công trường hướng về người chỉ huy Nguyễn Kim Tới đang ở trên đê quai thượng lưu. Đã có người đề nghị anh chuyển sang vị trí khác an toàn hơn. Nguyễn Kim Tới chỉ nói một câu ngắn gọn: “Chúng ta đứng ở đây. Chúng ta không đi đâu cả”. Và cả công trường đã gồng mình vượt qua được cái ngưỡng cuối cùng. Sức mạnh của người thợ Sông Đà đã thắng được cơn lũ dữ. Ấy là nhờ người chỉ huy đã dám chấp nhận hy sinh. Hơn một nghìn ngày đêm vất vả, thợ Sông Đà, thợ LICOGI, lính Trường Sơn đã dựng nên cả một kim tự tháp. Kim tự tháp của lòng dũng cảm trên dòng sông Đà ở địa phận xã Ít-Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Cả một tổ hợp công trình gồm đập thuỷ điện, kênh và cống dẫn dòng, đập tràn xả lũ chắn ngang sông Đà. Phía hạ lưu đập thuỷ điện, nơi dòng chính của sông Đà xưa kia chảy qua, cũng đã mọc lên một tổ hợp công trình để lắp đặt các tổ máy Nhà máy thuỷ điện Sơn La. Những đoạn đường ống áp lực của 6 tổ máy, có đường kính 16m, đang leo dần lên thân đập. Vị trí đặt tổ máy, đường nước ra cũng đã hình thành. Cuối tháng 12/2008, trời Mường La rét buốt nhưng những người thợ vẫn cần mẫn làm việc. Hoạt động náo nhiệt của công trường với xe máy đi lại nhộn nhịp, máy xúc, máy ủi chạy ngang chạy dọc, lửa hàn sáng loé trên vị trí các tổ máy làm không khí như nóng hơn. Bên chiếc cần trục Đê-mác 6000 đang được lắp những đốt cuối cùng, kỹ sư Chu Bá Phi – Đội trưởng Đội sửa chữa lắp đặt cần trục, Cty Lắp máy 10 khẳng định: Chiều nay (23/12/2008) chúng tôi lắp xong. Từ tháng 1/2009, chiếc cần trục tầm với 80m, sức nâng 80 tấn này bắt đầu hoạt động, phục vụ cho việc lắp đặt toàn bộ thiết bị đường ống áp lực, Stato tua bin buồng xoắn 6 tổ máy, các đường cút khuỷu 6 đường nước ra… Phi cho biết Tết Kỷ Sửu này sẽ có nhiều người thợ ở lại làm việc trên công trường. Kỹ sư Đinh Ngọc Đại – Phó giám đốc Cty Sông Đà 9.08 đơn vị chủ công đắp đập, chặn dòng cũng nói như vậy. Chặn dòng sông Đà lần 2 xong các anh sẽ phải đắp đê quai thượng, hạ lưu cống dẫn dòng đến cao độ thiết kế, bơm cạn nước trong lòng kênh, làm sạch lòng kênh, khoan phun chống thấm… để đến đầu tháng 2/2009 tiến hành đổ bê tông đầm lăn khối R1 của đập thuỷ điện đến cao độ 126m trên nền lòng kênh dẫn dòng xưa kia. Công việc phải xong trước ngày 10/4/2009. Ở hạ lưu thân đập, tôi gặp Tòng Văn Hoang, thợ Sông Đà, đang cần mẫn miết vữa xi măng gia cố mặt ngoài từng đốt đập thuỷ điện. Tòng Văn Hoang kể em là người Thái ở xã Nậm Păn, huyện Mường La, ngay đây. Nhà máy làm trên quê hương mình, em may mắn thực hiện được ước mơ của tuổi thơ bé: làm thợ xây dựng nhà máy trên dòng Sông Đà. Hết thuỷ điện Sơn La, em mong sẽ được xây dựng thuỷ điện Lai Châu. Không ít thanh niên Sơn La đã thực hiện được ước mơ: trở thành người thợ xây dựng thuỷ điện Sông Đà. Vào ngày chặn dòng sông Đà đợt 2, tôi gặp TS Thái Phụng Nê, đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ trên công trường xây dựng thuỷ điện Sơn La. Dịp tổ máy số 1 thuỷ điện Hoà Bình phát điện tháng 12/1988 (thấm thoát cũng đã 20 năm rồi), anh Thái Phụng Nê lặng lẽ đứng ở một góc hầm cùng anh em công nhân. Anh Nê nói với tôi: “Hơn 10 năm làm thuỷ điện Hoà Bình, lúc nào tôi cũng hình dung tới giây phút này”. Trò chuyện với anh, tôi chợt hiểu vì sao Lê-nin nói: Người cộng sản nên biết “ước mơ”. Chính thực tiễn lao động sáng tạo của những người thợ Sông Đà trên công trường thuỷ điện Hoà Bình đã củng cố niềm tin và chắp cánh cho ước mơ của ông – một trong những phó tiến sĩ xây dựng thuỷ điện đầu tiên của Việt Nam. Sau Hoà Bình, những người thợ Sông Đà đã làm một cuộc hành trình lịch sử, vào Tây Nguyên, sang Lào làm thuỷ điện để rồi từ đó, theo con đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn, ngược dòng sông Đà làm thuỷ điện Sơn La. Trong những phút “khải hoàn” của mỗi công trình, những người thợ xây dựng thường nhắc về những người đã khuất. Chặn dòng sông Đà lần này, ở điểm hợp long vắng đi dáng người cao lớn của kỹ sư Trần Hoàng Vũ, nguyên Giám đốc Cty Thi công cơ giới đào kênh, đắp đập thuỷ điện Hoà Bình (tiền thân của Cty Sông Đà 9- đơn vị Anh hùng Lao động). Anh mới mất cách đây ít ngày. Cũng vắng nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo của TCty Sông Đà (người đã nghỉ hưu, người chuyển đi đơn vị khác) như các anh Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Hồng Quân, Nguyễn Khắc Kiên, Phan Đình Đại, Trần Thọ Chữ, Cao Lại Quang, Đinh La Thăng, Nguyễn Tiến Cầm… Tôi nhớ tới tâm sự của anh Ngô Xuân Lộc khi anh từ công trường Hoà Bình về làm Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Anh Ngô Xuân Lộc nói: “Những lúc gặp vấn đề phải xử lý kỷ luật cán bộ, bao giờ mình cũng nhớ tới lúc khó khăn nhất của công trường, đồng chí ấy đứng ở đâu”. Chỗ đứng của họ thường là những chỗ gian khổ, quyết liệt nhất của công trường. Như trường hợp Nguyễn Kim Tới trên đê quai thượng lưu kênh dẫn dòng thuỷ điện Sơn La đợt chống lũ tháng 11/2005. Vào một ngày sau đợt lũ lụt tháng 8/2008 ở Lào Cai, tôi đến công trường xây dựng nhà máy thuỷ điện Sử Pán 2 ở xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, cũng do TCty Sông Đà làm chủ đầu tư. Anh em đề nghị tôi làm 4 câu thơ 7 chữ để mọi người ngâm nga. Và những câu thơ sau cứ tuần tự bật ra: “Mưa lũ qua rồi, máy lại vang/ San đường, thông tuyến, ta sẵn sàng/ Mai đây, nhà máy hoà lưới điện/ Bạn bè cùng ca, khúc khải hoàn…”. Mùa xuân này, xin chép ra tặng những người thợ Sông Đà. Những người đã góp phần vun đắp và thực hiện những ước mơ làm giàu cho Tổ quốc. |
Kim tự tháp của lòng dũng cảm
224
previous post

