Kỳ 2: Tắm mình trong nắng, gió rừng Lào Thời tiết chiều khách. Những ngày chúng tôi lưu lại ở công trường, thay vì đổ lửa rát bỏng, trời liên tiếp mưa. Không gian dịu mát khiến cho khách vãng lai có phần coi thường cái nắng, cái gió của rừng Lào. Người công trường thì khác. Họ rè rặt và cẩn trọng. Một chị có chồng là công nhân Cty Sông Đà 4, trước khi sang công trường khẩn trương đi học làm đậu phụ và giá đỗ. Giờ đây, khi sống trong vùng khô cằn, nắng gắt, thiếu quỹ đất trồng rau xanh cải thiện, mọi thứ đều đắt đỏ (ít nhất giá cả mặt hàng cùng loại gấp đôi, gấp ba trong nước) thì nghề mới xem ra phát huy hiệu quả, cung chẳng đủ cầu. Rau xanh ở công trường hiếm đến độ Giám đốc Ban điều hành tổng thầu cũng nhận ra bên hông khu lán trại của Ban ai đó mới tận dụng san một vạt đất nhỏ trồng rau lang. Vị Giám đốc hỏi ngay ai trồng. Chưa kịp nhận câu trả lời đã thấy vị này kết luận gọn: Rau đấy là của tập thể.
Nói như vậy không có nghĩa là bữa ăn của người công trường thiếu rau hay các loại lương thực thiết yếu. Chợ của người Lào gần công trường nhất cũng cách đến gần bốn mươi cây số thành ra người công trường có cách đi chợ khá “thời thượng” là muốn mua gì, số lượng bao nhiêu, chỉ cần gọi điện là có ngay người đem đến. Người cung ứng đều là người Việt. Họ chuyển hàng bằng xe máy từ thị trấn Plây Kần, qua cửa khẩu rồi đưa đến công trường. Quãng đường họ chuyên chở lương thực mới có chừng… 100km thôi. Vậy nên giá cả hàng hóa đương nhiên cũng tỷ lệ thuận với quãng đường và công sức họ bỏ ra. Cũng không hẳn người công trường phụ thuộc hết vào nhà cung ứng nhạy bén với thị trường nói trên. Một số bếp ăn tập thể đã chủ động nuôi cả trăm con gà… Còn cậu công nhân trẻ măng vận hành xe tải dung tích lớn chở đất đá của Cty 901, tên Quán, người Hải Dương, thì có cách đối diện với điều kiện sống và làm việc giữa rừng Lào theo cách riêng. Khi vẫy xe cậu này nhờ đi ra hiện trường, chúng tôi thấy trong ca bin treo tòng teng chiếc quần đùi. Chúng tôi cười cười, cậu bối rối lý giải: Nước sạch ở công trường phập phù. Em chủ động, hết ca xuống sông tắm luôn rồi mới về (!). Tắm sông hẳn nhiên là không an toàn tuyệt đối. Nhưng sự lựa chọn của cậu công nhân này xem ra có vẻ thức thời. Bởi chúng tôi cũng đã kịp thưởng thức món nước sạch công trường. Nước được dẫn từ hai con suối tự nhiên trong rừng (nghe nói là trong vắt quanh năm) vào bể lọc tập trung rồi từ đây nước tiếp tục được dẫn về vòi sử dụng trong các khu lán trại. Thí nghiệm cho thấy nước đạt tiêu chuẩn lý hóa dùng trong sinh hoạt. Vậy mà sau cơn mưa rừng, nước dùng trong “phòng khách VIP” chúng tôi dùng vẫn vàng quạch, có lúc tắt ngóm. Chúng tôi cũng thấy ở đây người công trường chủ động và coi trọng công tác chuẩn bị lán trại. Nhiều năm trước, việc thi công các công trình lớn như thủy điện Hòa Bình, Yaly kéo dài cả chục năm, lao động tập trung hàng vạn người vậy nên bên cạnh công trường luôn hình thành những khu ở tập thể khá tươm tất, rồi thì có cả trường mầm non, trường tiểu học, nhà văn hóa, trạm xá và chợ… Tất cả nhằm bảo đảm chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần, để người lao động yên tâm công tác. Nhưng cũng từ lâu rồi, với sự hỗ trợ của thiết bị, công nghệ hiện đại, trình độ của người lao động được nâng cao, việc thi công công trình thủy điện xấp xỉ 300MW như Xekaman 1 chỉ khoảng 5 – 6 năm và tùy theo yêu cầu công việc vào từng thời điểm mà người lao động được huy động. Hiện tại, công trường Xekamản 1 tập trung gần 1.000 người. Dự kiến lúc cao điểm sẽ có khoảng 4.000 người. Người lao động không còn tha lôi vợ con theo mình đến công trường như trước, trừ một số trường hợp cả vợ và chồng cùng làm một đơn vị. Hơn nữa, theo quy định mới, việc chuẩn bị đầu tư lán trại cho người lao động cũng thoáng hơn. Thành ra điều kiện ăn ở tại các công trường thời nay giản đơn hơn nhiều, thậm chí chúng tôi được chứng kiến có công trường nhà thầu để người lao động ở trong lán trại chật chội, tạm bợ, nhếch nhác, vá víu. Ở công trường Xekamản 1 thì khác. Phần lớn lán trại đều tươm tất, nhà xây gạch, khép kín, lợp tôn và luôn bố trí sân chơi thể thao bóng chuyền, cầu lông, cầu mây… Chỉ cho chúng tôi thấy khu đất rộng gần trụ sở Ban điều hành mới san ủi, vị Giám đốc Ban điều hành tổng thầu có vẻ tiếc nuối: Chỗ đấy dự kiến ban đầu làm sân bóng đá nhưng một đơn vị đã xin làm mặt bằng để dựng lán trại cho người lao động từ Việt Nam sang. Biết là như vậy công trường sẽ không có được khuôn viên rộng rãi, thiếu đi không gian văn hóa cộng đồng nhưng cũng không làm khác được. Công trường mở ra giữa vùng rừng núi, địa hình hiểm trở, quỹ đất bố trí mặt bằng cho khu lán trại của các nhà thầu vì vậy mà luôn eo hẹp. Chính vì người công trường không còn điều kiện thuận tiện như trước nên giờ đây, sống giữa rừng Lào, một trong những việc được người công trường chuẩn bị kỹ càng nhất là sắp xếp cho hậu phương. Trước khi theo chồng vào công trường Xekamản 1 cùng công tác, chị Quy buộc phải gửi cậu con trai duy nhất cho ông bà nội cháu chăm sóc. Chị lo lắng nói: Năm sau khi con trai đi học lớp 1, có lẽ chị sẽ trở về chăm lo, kèm cặp cho con. Vợ chồng anh Chất chị Vân cũng có tính toán tương tự. Khác chăng là cô con gái đầu của anh chị năm nay đã 18 tuổi, chuẩn bị thi đại học, cậu con trai thứ cũng đã học lớp 10. Trong khi bố mẹ “xuất khẩu lao động” bên Lào thì hai đứa trẻ sống với ông bà ở Hòa Bình. Ngôi nhà của gia đình anh chị ở Gia Lai bỏ không. Sau nhiều năm tháng cùng anh rong ruổi khắp các công trường thủy điện ở Tây Nguyên, giờ đây chị đang dự định theo học nghề mới, vận hành nhà máy điện với hy vọng sẽ được ưu tiên tuyển chọn làm công nhân trong một nhà máy điện ở Gia Lai. Chẳng phải là chị tham sự an nhàn mà đơn giản chỉ muốn có một cuộc sống ổn định hơn để có thể chăm lo cho các con và chăm sóc bố mẹ già thay cho cảnh “một chốn bốn nơi” như hiện nay. Nguyện vọng của anh Chất chị Vân cũng như bao người ở công trường khác rõ ràng là rất chính đáng mà sao nghe xa xôi, bùi ngùi đến vậy.v Kỳ sau: “Mối tình” mang tên Xekamản1 |
Người Việt làm thủy điện giữa rừng Lào (kỳ 2)
333
previous post


