Trang chủ » Phát triển cấp nước đô thị và KCN Việt Nam đến năm 2025: Nỗ lực đáp ứng yêu cầu cho giai đoạn mới

Phát triển cấp nước đô thị và KCN Việt Nam đến năm 2025: Nỗ lực đáp ứng yêu cầu cho giai đoạn mới

by Kien Truc - Kientruc.vn










Bất cập



Theo số liệu thống kê của Bộ Xây dựng, qua 10 năm thực hiện Định hướng phát triển cấp nước (1998 – 2007), mạng lưới cấp nước đô thị Việt Nam không ngừng tăng trưởng. Dịch vụ cấp nước ngày càng được cải thiện đáng kể, đặc biệt tại các đô thị lớn. Hiện toàn quốc có 68 DN cấp nước đô thị, trên 420 hệ thống cấp nước lớn nhỏ với tổng công suất thiết kế đạt 5,48 triệu m3/ngđ, công suất khai thác 4,2 triệu m3/ngđ. Tỷ lệ bao phủ dịch vụ cấp nước đô thị 70%. Tất cả các thành phố, thị xã và hơn 300/673 thị trấn có hệ thống cấp nước tập trung; các KCN tập trung đã được cấp nước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và SXKD.



Mặc dù phát triển như vậy nhưng công tác cấp nước đô thị vẫn còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Tỷ lệ bao phủ còn thấp, một số đô thị lớn đạt 75 – 90%, các thị trấn đạt khoảng 50 – 60%, tiêu chuẩn cấp nước bình quân 90l/người/ngđ, chất lượng dịch vụ không ổn định. Công suất khai thác chỉ đạt 77% công suất thiết kế. Đặc biệt, tỷ lệ thất thoát, thất thu nước tại các đô thị trong toàn quốc còn khá cao, bình quân 32% so với các nước phát triển bình quân 15%.



Trong khi đó, dự báo quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, dự báo đến năm 2015 khoảng 35 triệu người, chiếm tỷ lệ 38%; năm 2025 khoảng 52 triệu người, chiếm tỷ lệ 50%. Với tốc độ đô thị hóa tăng nhanh như vậy đòi hỏi ngành Nước phải đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt, phát triển sản xuất và các nhu cầu khác của đô thị. Đây là một thách thức lớn.






Điều chỉnh



Từ thực trạng trên, Bộ Xây dựng đã tổ chức soát xét và có Tờ trình Chính phủ về Định hướng phát triển cấp nước đô thị và KCN Việt Nam đến năm 2025. Theo đó, điều chỉnh các giai đoạn ngắn hạn, dài hạn của định hướng đến 2015 và 2025 tương ứng với các giai đoạn của Định hướng phát triển đô thị Việt Nam. Đồng thời tính toán, xác định lại các mục tiêu của từng giai đoạn cho phù hợp với tình hình thực tế và dự báo mới về diễn biến phát triển KT-XH, đô thị của Việt Nam.



Cụ thể, điều chỉnh các chỉ tiêu về chất lượng dịch vụ cấp nước và tiêu chuẩn sử dụng nước cho phù hợp. Hoạt động cấp nước không chỉ giới hạn ở việc cung cấp nước đến người sử dụng mà đòi hỏi phải đáp ứng đồng bộ các yếu tố về chất lượng nước sạch, áp lực nước, lưu lượng, tính liên tục và ổn định của dịch vụ. Tiêu chuẩn sử dụng nước cũng được xác định lại cho phù hợp với khả năng phát triển của từng giai đoạn đồng thời có xem xét đến xu thế chung của quốc tế về mức sử dụng tối đa khi áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhằm sử dụng nước tiết kiệm.



Điều chỉnh một số nội dung của Định hướng cũ cho phù hợp với các chính sách mới ban hành cũng như một số nhận thức, quan điểm mới và phương thức thực hiện mới có liên quan đến lĩnh vực cấp nước như: Chuyển dịch vụ cấp nước từ dịch vụ công ích sang hoạt động SXKD chịu sự kiểm soát của Nhà nước; quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý theo lưu vực sông; hoạt động cấp nước không hạn chế theo địa giới hành chính, khuyến khích đầu tư xây dựng các công trình cấp nước có tính chất vùng…






Giải pháp thực hiện








Mục tiêu ngắn hạn đến năm 2015: Tỷ lệ bao phủ dịch vụ cấp nước sạch tại các đô thị từ loại IV trở lên đạt 90%, với tiêu chuẩn cấp nước 120 l/người/ngđ; các đô thị loại V đạt 70%, với tiêu chuẩn cấp nước là 100 l/người/ngđ; chất lượng nước đạt tiêu chuẩn theo quy định.


Để thực hiện tốt những yêu cầu trên, theo Bộ Xây dựng, trong việc khai thác nguồn nước sẽ ưu tiên khai thác nguồn nước mặt, khai thác sử dụng nguồn nước ngầm hợp lý và từng bước giảm lưu lượng khai thác nước ngầm tại khu vực Hà Nội, TP.HCM. Đánh giá trữ lượng, chất lượng, biến đổi dòng chảy tại các sông chính; xác định khu vực, khả năng khai thác, cung cấp nước của từng dòng sông. Đánh giá trữ lượng, chất lượng hệ thống hồ đập trên toàn quốc. Lập kế hoạch khai thác sử dụng và đầu tư xây dựng hồ đập sử dụng đa mục đích, ưu tiên cho khai thác cung cấp nước sinh hoạt. Trong mọi trường hợp khi nguồn nước hạn chế, việc cung cấp nguồn nước thô cho cấp nước sinh hoạt được ưu tiên hàng đầu.



Đầu tư, phát triển và quản lý hệ thống cấp nước: Xã hội hoá ngành cấp nước, huy động mọi thành phần kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển ngành nước. Trong đó, việc cổ phần hoá các Cty cấp nước là vấn đề trọng tâm trong những năm tới. Để đảm bảo nhà máy nước hoạt động hết công suất thiết kế, đầu tư xây dựng đồng bộ giữa nhà máy xử lý và mạng lưới đường ống cấp nước, phát triển hoàn chỉnh mạng lưới đường ống cấp nước tại các đô thị, đảm bảo phủ kín cho khu vực nội thành và vùng ven. Lập các dự báo về nhu cầu cấp nước tại các đô thị lớn, tốc độ đô thị hóa mạnh và có tăng trưởng nhanh về xây dựng các KCN, để đầu tư nâng công suất hệ thống cấp nước.



Để thực hiện những yêu cầu trên, Bộ Xây dựng cũng kiến nghị cơ chế, chính sách cho ngành nước. Cụ thể, ngành nước là ngành dịch vụ công cộng chịu sự kiểm soát của nhà nước; các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đều có thể tham gia đầu tư, kinh doanh các lĩnh vực cấp nước song phải tuân thủ các quy định pháp luật về khai thác, sản xuất và cung cấp nước của Việt Nam. Giá nước hợp lý và đảm bảo các DN hoạt động kinh doanh có hiệu quả, định kỳ được điều chỉnh giá nước theo nguyên tắc đảm bảo hài hòa lợi ích của DN và đối tượng sử dụng nước. Các đơn vị cấp nước thực hiện thỏa thuận dịch vụ cấp nước với chính quyền địa phương, chịu trách nhiệm với chính quyền địa phương về quản lý, phát triển cấp nước và thực hiện cấp nước an toàn, đầy đủ cho khu vực phục vụ theo thỏa thuận. Phát triển công nghệ, vật tư thiết bị ngành nước để có chế độ tự động hoá cao, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên…

You may also like