Ngày 2/6, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII, Chính phủ đã báo cáo nội dung tóm tắt đồ án “Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050”. Nhiều vấn đề của đồ án quy hoạch đã được các đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ. Nhìn chung, các ý kiến của các đại biểu thống nhất với nhiều nội dung của quy hoạch chung (QHC) nhằm xây dựng và phát triển Hà Nội xứng đáng với vị thế Thủ đô của cả nước. Tuy nhiên, còn có những ý kiến chưa rõ, băn khoăn về một số vấn đề như tính kế thừa các quy hoạch đã được lập trước đây, về định hướng phát triển không gian, về dự báo phát triển một số chỉ tiêu trong tương lai, về tổ chức thực hiện quy hoạch sau khi được phê duyệt… Vì vậy, ngày 14/6, Chính phủ đã có báo cáo số 79/BC-Cp báo cáo bổ sung một số nội dung về QHC xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Chúng tôi xin cung cấp thêm một số thông tin để bạn đọc rõ:
Về mô hình và cấu trúc phát triển Thủ đô Hà Nội Định hướng QHC Thủ đô Hà Nội giai đoạn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, phát triển theo mô hình chùm đô thị, gồm đô thị trung tâm hạt nhân và các đô thị vệ tinh, được liên kết bằng hệ giao thông vành đai kết hợp các trục hướng tâm, có mối liên kết với hệ giao thông vùng Thủ đô và Quốc gia. Đây là mô hình phù hợp với xu hướng chung của các nước đang phát triển, phù hợp với thực tế phát triển của Thủ đô Hà Nội hiện nay và tương lai, đảm bảo kế thừa các mô hình đã nghiên cứu đề xuất tại các đồ án quy hoạch, đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trước đây. Các quy hoạch trên đã đưa ra các khái niệm mới về chùm đô thị, bao gồm: Đô thị đối trọng là thủ phủ của các tỉnh lỵ xung quanh trong vùng Hà Nội (Bắc Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh Yên…) cạnh tranh phát triển với đô thị trung tâm hạt nhân và hoạt động độc lập; đô thị vệ tinh là đô thị nằm trong tầm ảnh hưởng và chia sẻ chức năng với đô thị trung tâm hạt nhân. trong QHC đã phát triển khái niệm này cho phù hợp với tình hình hiện tại của Thủ đô. Thủ đô Hà Nội phát triển theo mô hình chùm đô thị, có cấu trúc gồm đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh tạo ra cơ hội đổi mới cấu trúc đô thị từ: “Độc cực, tập trung” sang “Đa cực, phi tập trung”. Chính mô hình này đảm bảo cho đô thị trung tâm hạt nhân sẽ được giảm tải căn bản bởi một số chức năng đang bị dồn nén quá mức như công nghiệp, dịch vụ, thương mại; giáo dục, đào tạo; y tế, văn hóa, thể dục thể thao… một khi các chức năng này được phân bớt, hoặc chuyển hẳn vào các đô thị vệ tinh và tạo nên các trung tâm mới. Như báo cáo đã nêu, Thủ đô Hà Nội gồm 1 đô thị trung tâm, 5 đô thị vệ tinh, các thị trấn sinh thái và vùng nông thôn. Đô thị trung tâm hạt nhân Hà Nội được xác định tiếp tục mở rộng khu vực nội đô hiện nay về phía nam sông Hồng đến đường vành đai 4 và phía bắc sông Hồng (gồm Đông Anh, Gia Lâm, Mê Linh), nhằm giải quyết các vấn đề tồn tại về hạ tầng đô thị và dân số. Đô thị trung tâm hạt nhân không phát triển liền mạch trên toàn bộ vùng đất xác định như đã nêu trên, mà phải có vành đai xanh như vành đai sông Nhuệ và các nêm xanh phân tách để giới hạn các khu vực đã xây dựng, khu vực cần bảo tồn và khu vực xây dựng phát triển mới. Đô thị vệ tinh của Thủ đô Hà Nội được xây dựng phát triển dựa trên các đô thị hiện hữu như: Sơn Tây, Xuân Mai, phú Xuyên, Sóc Sơn. Chỉ có Hòa Lạc là đô thị phát triển mới. Các đô thị vệ tinh này chủ yếu khai thác quỹ đất vùng gò đồi bán sơn địa phía tây và phía bắc, không ảnh hưởng đến đất nông nghiệp. Các đô thị vệ tinh của Thủ đô Hà Nội khác với các đô thị vệ tinh trong vùng Thủ đô là có chức năng tương đối độc lập và hạn chế những di chuyển về giao thông, giảm thiểu sự lệ thuộc vào đô thị trung tâm hạt nhân, hỗ trợ và tác động qua lại với đô thị trung tâm. Hành lang xanh có vai trò giới hạn sự phát triển lan tỏa từ đô thị trung tâm hạt nhân đến các đô thị vệ tinh và ngược lại. Các thị trấn sinh thái được phát triển từ các thị trấn thị tứ hiện hữu theo mô hình đô thị sinh thái, có kiểm soát và giới hạn về quy mô, tính chất, chức năng và hình thái không gian. Các thị trấn này sẽ đóng vai trò hỗ trợ các tiện ích công cộng, hạ tầng, thúc đẩy sản xuất, kinh tế xã hội trong vùng nông thôn. Các đô thị sinh thái này sẽ là cầu nối để phát triển cân bằng giữa đô thị và nông thôn.
Về phát triển nông thôn Nông thôn Hà Nội sẽ phát triển theo mô hình “Nông thôn mới” trong đô thị đặc biệt. Cải thiện hạ tầng kỹ thuật nhất là hạ tầng giao thông nông thôn; xây dựng các cụm dân cư đổi mới gắn với các trung tâm dịch vụ sản xuất tại các cụm, điểm trung tâm xã; xây dựng mẫu nhà ở nông thôn điển hình để nhân dân góp ý, tiến tới áp dụng phổ biến công trình không xây dựng quá 3 tầng, mật độ thấp, đáp ứng tiện nghi và sinh hoạt hiện đại, thống nhất về ngôn ngữ kiến trúc, tiến tới mô hình nông thôn hiện đại có bản sắc trong Thủ đô. Ngoài ra, phải kiểm soát hạn chế phát triển về đất đai xây dựng khu vực nông thôn và tăng cường các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường nông thôn, đặc biệt tại các làng nghề. QHC cũng định hướng giải quyết vấn đề giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống của người nông dân, khuyến khích phát triển các trung tâm hỗ trợ sản xuất, cung cấp dịch vụ tiện ích công cộng và định hướng phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật tại khu vực nông thôn để đảm bảo sự phát triển hài hòa, cân bằng giữa đô thị và nông thôn. Người dân sẽ có điều kiện tiếp cận dễ dàng hơn với các tiện ích đô thị, hệ thống giao thông hiện đại của thủ đô, được cung cấp nước sạch và xử lý các vấn đề môi trường như người dân đô thị. Xây dựng mô hình nông thôn mới không chỉ phát triển nông nghiệp truyền thống, thuần túy mà phải hướng đến phát triển nông thôn mới theo hướng nông nghiệp công nghệ cao gắn với du lịch sinh thái; tiến hành tổ chức lại sản xuất, gắn nông nghiệp với làng nghề, thủ công nghiệp, dịch vụ và đô thị theo quy hoạch. Chú trọng phát triển nông nghiệp sinh thái, ven đô, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa quanh các đô thị, các vành đai rau xanh an toàn, hoa, cây ăn quả sạch, phát triển rừng và cây xanh phục vụ cho các đô thị, KCN, đảm bảo môi trường sinh thái cho Thủ đô. Với vị trí, vai trò trung tâm của Quốc gia, phát triển nông nghiệp Hà Nội phải trở thành mô hình mẫu cho cả nước về công nghệ cao, hiện đại, hiệu quả, đi đầu trên cả nước về thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác… Bổ sung các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất ở vùng nông thôn thông qua hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn, công nghệ, tiêu thụ sản phẩm. Nội dung của quy hoạch nông thôn được nghiên cứu và thể hiện lồng ghép trong tất cả các vấn đề đã nêu trong báo cáo về QHC Hà Nội.
Về không gian xanh, hành lang xanh Không gian xanh và hệ thống sông hồ là hình ảnh đặc trưng của Thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên hiện nay hệ thống công viên cây xanh cung cấp tiện ích, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân Thủ đô rất thiếu, chỉ tiêu đất công viên cây xanh khu vực nội đô chỉ đạt 2 – 3m2/người. Hệ thống sông hồ luôn bị xâm chiếm và bị ô nhiễm nghiêm trọng. trong đồ án QHC đã tăng cường hệ thống không gian xanh, công viên đô thị thông qua việc bảo vệ, cải tạo mở rộng hệ thống sông hồ hiện có, nâng cao diện tích cây xanh thông qua cơ cấu lại quỹ đất từ các cơ sở công sở, công nghiệp, trường học, bệnh viện sau khi di dời, bố trí các công viên chuyên đề tại các khu vực chức năng đô thị, bố trí các nêm xanh, các vành đai xanh để giới hạn các khu vực phát triển đô thị lan tỏa. Tăng chỉ tiêu cây xanh tại đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh đạt 12 – 15m2/người. Hành lang xanh được đưa ra để bảo tồn vùng nông nghiệp – nông thôn và hạn chế sự phát triển lan tỏa của đô thị bao gồm các nội dung chính sau: hệ thống công viên cây xanh ven đô, vùng đất nông nghiệp ổn định, vùng đa dạng sinh học, di tích tôn giáo và quần thể di tích, hệ thống làng xóm, làng nghề, hệ thống sông hồ, mặt nước… Ý tưởng hành lang xanh chiếm 70% diện tích đất tự nhiên được đưa ra nhằm bảo tồn vùng nông nghiệp năng suất cao, các làng nghề truyền thống, cảnh quan tự nhiên, làng xóm nông thôn… nhằm đảm bảo phát triển Thủ đô trên cơ sở bảo tồn, cân bằng và bền vững. trong các bước triển khai tiếp theo ở đồ án quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết sẽ có quy chế quản lý cụ thể cho từng khu vực trong hành lang xanh.
Về bảo tồn di sản QHC đã xác định được các vùng đặc trưng văn hóa cần bảo tồn như vùng văn hóa Thăng Long, văn hóa Xứ Đoài, vùng văn hóa Hòa Bình… các khu vực cần kiểm soát đặc biệt như: Khu di tích Hoàng Thành Thăng Long, khu phố cổ, khu phố cũ, các di tích ven hồ Tây, thành Cổ Loa, thành cổ Sơn Tây, các làng nghề truyền thống, các cụm di tích và di tích đơn lẻ, các khu đặc thù tự nhiên như hồ Tây, hồ Gươm, sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Đáy … Nội dung bảo tồn di sản đã đưa ra thành các nguyên tắc trong tổ chức không gian, định hướng hạ tầng xã hội, định hướng hạ tầng kỹ thuật…và đề xuất các giải pháp bảo tồn cải tạo cụ thể cho các khu vực Hoàng Thành Thăng Long, phố cổ, phố cũ, thành cổ… Tuy nhiên để lập chi tiết các danh mục cần bảo tồn, các di tích cần tiếp tục triển khai ở các bước quy hoạch chuyên ngành tiếp theo và nghiên cứu ở mức độ dự án mà trong QHC lần này không thể đề cập đến. Đây là quy định ở mức độ QHC.
Về ý kiến cho là “trung tâm hành chính Quốc gia chuyển lên Ba Vì” trong Hiến pháp, Nghị quyết 15-NQ/TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị và pháp lệnh Thủ đô đều chỉ rõ: Hà Nội là Thủ đô của nước CHXHCN Việt Nam; là trái tim của cả nước, đầu não chính trị – hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Theo đó phải hiểu rằng toàn bộ Thủ đô Hà Nội (theo ranh giới hành chính) là trung tâm chính trị – hành chính quốc gia của cả nước. trong Thủ đô Hà Nội có trụ sở của các cơ quan công sở quốc gia. Không có khái niệm trung tâm Hành chính Quốc gia cho một địa điểm hoặc một khu vực nào đó trong Thủ đô và càng không thể có chuyện dời đô như một số ý kiến còn băn khoăn đặt câu hỏi. Thủ đô Hà Nội của chúng ta, từ thực trạng và những nguyên nhân lịch sử đã hình thành trung tâm Chính trị Ba Đình”, nơi đây đặt trụ sở các cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ; nơi có chứng tích về sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; nơi có lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đang còn yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng. Và như vậy, chắc chắn và mãi mãi Ba Đình vẫn sẽ là trung tâm chính trị của đất nước và trong tâm thức của mỗi người Việt Nam chúng ta. Tuy nhiên tại khu vực Ba Đình không có điều kiện xây dựng tập trung tất cả trụ sở của các cơ quan đầu não của bộ máy hành chính Quốc gia, mà phải bố trí ở những khu vực khác nhau trong Tp Hà Nội. Hiện nay, một số bộ, ngành thuộc Chính phủ đã và đang xây dựng trụ sở tại khu vực Mễ trì – Mỹ Đình, Chính phủ đã đang chỉ đạo tiếp tục quy hoạch chọn địa điểm để đưa một số bộ, ngành nữa ra ngoài khu vực nội đô. Qua các lần báo cáo Thường trực Chính phủ, Liên danh tư vấn đã đề xuất nhiều vị trí khác nhau, xem xét ở nhiều góc độ, tiêu chí: phù hợp về quy hoạch không gian, hạ tầng, môi trường sinh thái, điều kiện tự nhiên, đất đai… thì Ba Vì hoàn toàn đáp ứng được các điều kiện để quy hoạch là nơi làm việc của các cơ quan hành chính trong tương lai. Ba Vì trong ý tưởng QHC lần này chỉ là nơi dự trữ xây dựng một số cơ quan của Chính phủ sau năm 2050. trụ sở các bộ, ngành ở Mỹ Đình không nhất thiết sau này cũng phải chuyển đi nơi nào khác nếu không có nhu cầu. Việc dành quỹ đất dự trữ là cần thiết, tương tự như việc quy hoạch dành đất cho các công trình công cộng, y tế, giáo dục, thương mại, dịch vụ… phải được nêu trong quy hoạch dài hạn. Đây là đề xuất về tầm nhìn, điều cần phải có ở bất kỳ một đồ án QHC nào.
Về quy hoạch giao thông Giải pháp khắc phục tình trạng ắch tắc giao thông phải mang tính tổng hợp, đa ngành, từ quy hoạch đến cơ chế chính sách và nhận thức của người dân. Đối với mạng lưới giao thông Hà Nội cần phải nhanh chóng xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ hiện đại. Hoàn thiện hệ thống đường vành đai đô thị đến vành đai 5; cải tạo nâng cấp, xây dựng mới các trục chính đô thị khu vực trung tâm và tại các đô thị vệ tinh; 15 trục đường hướng tâm chính (quốc lộ và cao tốc); 7 tuyến đường liên kết đô thị trung tâm và đô thị vệ tinh; 2 tuyến cao tốc cấp vùng đi Tây Bắc và đường Hồ Chí Minh. Ưu tiên xây dựng bổ sung và đưa vào sử dụng sớm các nút giao thông cho các hướng có mật độ giao thông cao như hướng bắc – nam qua QL1, đường Bắc Thăng Long – Nội Bài, hướng đông tây qua đường 32. Quy hoạch thêm 9 cầu mới trên sông Hồng, 3 cầu qua sông Đuống và 1 cầu qua sông Đà để khép kín hệ thống đường vành đai và kết nối hệ thống đường xuyên tâm. Tăng cường quỹ đất cho giao thông để đảm bảo đạt chỉ tiêu tỷ lệ đất giao thông 20 – 26% quỹ đất xây dựng đô thị.
Về trục Thăng Long trong QHC có 5 trục giao thông mới được đề xuất song hành với 7 trục hướng tâm hiện hữu, để tăng cường khả năng giao thông phục vụ 5 đô thị vệ tinh về phía bắc, phía tây và phía nam, hành lang xanh. trong đó có một trục phát triển, cũng là 1 trục cảnh quan được đề xuất kết nối khu vực nội đô với Hòa Lạc – tạm gọi là trục Thăng Long. Đây là một tuyến giao thông quan trọng rất cần thiết cho hiện tại và trong tương lai. trục Thăng Long bên cạnh chức năng giải quyết các vấn đề về giao thông; hành lang hạ tầng kỹ thuật là hết sức cần thiết, còn tạo điểm nhấn về không gian kiến trúc (trục Thăng Long đoạn mở rộng 350m dài khoảng 3,5km tại khu vực từ vành đai 3 đến vành đai 4 để bố trí các công trình kiến trúc văn hóa là điểm nhấn cho Tp Hà Nội) và ý tưởng của tư vấn là thể hiện không gian kiến trúc cảnh quan kết nối văn hóa Thăng Long và văn hóa Xứ Đoài. Một số ý kiến đã nêu trục Thăng Long là “trục tâm linh hay trục hoàng đạo” là không đúng với ý tưởng của đồ án. Dọc trục Thăng Long sẽ được xây dựng và kiểm soát quỹ đất 2 bên để tạo dựng nên quần thể kiến trúc đô thị hiện đại cho Thủ đô. Các dự án nơi có trục Thăng Long đi qua sẽ được quy hoạch lại để phù hợp với mục tiêu phát triển chung của Tp. trục Thăng Long sẽ được phát triển theo từng giai đoạn cụ thể phù hợp với nhu cầu phát triển. trước mắt cần phải kiểm soát bảo vệ quỹ đất và hành lang cho phát triển tuyến đường này trong tương lai, tránh để cho các dự án đầu tư không đúng mục đích sẽ ảnh hưởng tới công tác di dời, GpMB trong tương lai. Về quy hoạch hai bên sông Hồng Khu vực hai bên sông Hồng hiện nay, nhà cửa phát triển thiếu kiểm soát rất lộn xộn, dân cư nằm trong hành lang thoát lũ không an toàn, không đáp ứng vai trò trục không gian cảnh quan chủ đạo của Thủ đô. Về lâu dài không thể tồn tại trong Thủ đô một tuyến dân cư đô thị phát triển gần như tự phát hiện hữu. Dự án sông Hồng hiện đang trong giai đoạn nghiên cứu đã có những đề xuất giải quyết các vấn đề đô thị ở khu vực này như nghiên cứu trị thủy sông Hồng, đề xuất hành lang thoát lũ, cải tạo các tuyến đê, tổ chức không gian đô thị và phương án huy động nguồn lực đầu tư. trong QHC này đã tiếp nhận nội dung nghiên cứu trước đây của dự án, có điều chỉnh lại cho phù hợp với tổng thể của QHC đang lập, như: Khu vực Tứ Liên kết nối không gian Hồ Tây với khu vực Cổ Loa cần phải giảm thiểu mật độ và tầng cao xây dựng để hình thành các công viên đô thị, hạn chế chất tải thêm dân số, tăng cường không gian xanh, công trình văn hóa, biểu tượng tạo điểm nhấn không gian cho Thủ đô. Các khu vực khác, ưu tiên quỹ đất tái định cư tại chỗ, kết hợp xây dựng các tổ hợp công trình công cộng và nhà ở đô thị. Để dự án sông Hồng có tính khả thi, UBND Tp Hà Nội đã phối hợp với Bộ NN&pTNT xác định hành lang thoát lũ, phối hợp với Cục Đê điều nghiên cứu rà soát hệ thống đê điều, điều chỉnh một số vị trí tuyến đê theo nguyên tắc tăng cường an toàn, đảm bảo thoát lũ theo tính toán, ổn định dòng chảy lũ. trên cơ sở đó để lập phương án QHC phù hợp với quy trình pháp luật và định hướng QHC của Thủ đô.
Về vấn đề phòng chống úng lụt cho Hà Nội Công tác chống lũ cho Hà Nội cũ đã được nghiên cứu trong “Quy hoạch phòng chống lũ hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định 92/2007/QĐ-TTg ngày 21/6/2007. Theo quyết định này, trong trường hợp khi có lũ lớn, các hồ chứa điều tiết cắt lũ cho hạ du đã sử dụng hết dung tích phòng lũ mà dự báo lũ còn tiếp tục lên thì sẽ chuyển một phần lưu lượng lũ từ sông Hồng vào sông Đáy qua cửa đập Đáy; chuyển một phần lưu lượng lũ từ sông Đà vào sông Tích qua đoạn đê được chủ động phá vỡ bằng mìn tại Lương phú. Khi Hà Nội mở rộng cùng với việc xuất hiện các hồ chứa lớn trên thượng nguồn hệ thống sông Đà như hồ thủy điện Sơn La, việc phân lũ này không còn phù hợp. Chính phủ đã chỉ đạo “Rà soát quy hoạch phòng chống lũ và đê điều hệ thống sông Đáy”, Bộ NN&pTNT đã báo cáo Chính phủ và được cụ thể hóa bằng văn bản số 528/TTg-KTN ngày 31/3/2010, trong đó đồng ý về nguyên tắc không sử dụng các công trình phân lũ, chậm lũ như một biện pháp phòng chống lũ cho đồng bằng sông Hồng khi hồ Sơn La tham gia điều tiết cắt giảm lũ cho hạ lưu. Toàn Tp được phân thành 8 vùng bảo vệ cho hệ thống các sông có đê gồm sông Đà, sông Hồng, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ, sông Bùi, sông Tích, sông Đáy và sông Mỹ Hà. Quy hoạch cũng đã thống nhất được mức đảm bảo phòng chống lũ, như khu vực nội thành đảm bảo chống lũ 500 năm, khu vực khác trong phạm vi sông Hồng, sông Đuống đảm bảo chống lũ 300 năm, sông Cầu đảm bảo chống lũ 100 năm. Theo đó cũng đã đề xuất chỉ giới thoát lũ cho các sông chính có đê và giải pháp thực hiện cho từng tuyến sông trên địa bàn. Ngập úng trong nội đô hiện nay tồn tại do rất nhiều nguyên nhân như: Hệ thống hồ điều hòa thiếu, mực nước hồ điều hòa chưa hợp lý; quản lý chưa tốt mạng lưới cống thoát nước; công trình thoát nước mưa chính chưa hoàn chỉnh như trạm bơm Yên Sở hoặc xây dựng chậm như trạm bơm Yên Thái, Yên Nghĩa…; và ý thức của cộng đồng chưa tốt cũng góp phần làm gây ách tắc dòng chảy. Để giải quyết dứt điểm vấn đề ngập úng trong đô thị, quy hoạch đã nghiên cứu phân tích hệ thống hiện trạng và các dự án thoát nước đang thực hiện trên quan điểm có tính đến biến đổi khí hậu. Với đô thị trung tâm phân thành 2 lưu vực chính phía bắc sông Hồng và phía nam sông Hồng gồm 7 lưu vực phụ để tính toán chi tiết nhu cầu tiêu thoát, khống chế cao độ nền đảm bảo tần suất tính toán. Ngoài xây dựng bổ sung các công trình đầu mối thoát nước như trạm bơm tiêu thoát, cần nạo vét đảm bảo thông thoáng hệ thống kênh tiêu chính, bổ sung các hệ thống cống thoát đảm bảo phủ kín 100% lưới đường.
Về tài chính và lộ trình thực hiện Vấn đề tài chính trong QHC xây dựng được hiểu là khái toán vốn đầu tư xây dựng khác với tổng mức đầu tư trong Dự án đầu tư. Tổng mức đầu tư của dự án đầu tư phải tính toán càng chính xác càng tốt để thấy được hiệu quả đầu tư và xác định ngay được nguồn tài chính ở đâu để thực hiện dự án. Do đặc tính của quy hoạch là dự báo cho khoảng thời gian dài 10 năm, 20 năm, tầm nhìn 30 năm hoặc 40 năm, nên khái toán vốn đầu tư xây dựng trong QHC được tiên lượng là để biết được nhu cầu về tài chính để thực hiện được mục tiêu và tầm nhìn đặt ra trong quy hoạch. Từ đó, xây dựng các giải pháp và cơ chế chính sách phù hợp để tạo ra nguồn lực thực hiện quy hoạch (thông qua các dự án cụ thể). Đối với Thủ đô Hà Nội, trong quá trình thực hiện quy hoạch Chính phủ sẽ chỉ đạo các bộ ngành và UBND Tp Hà Nội nghiên cứu và đề xuất các cơ chế, chính sách phù hợp để khai thác tối đa các nguồn lực, trước hết cho việc xây dựng hạ tầng khung đô thị, mà chủ yếu sẽ dựa vào sức các nhà đầu tư, sức dân và quỹ đất. Hạn chế việc sử dụng vốn ngân sách và vốn vay. Đất đai là nguồn lực vô cùng lớn và hiệu quả, đặc biệt là ở Thủ đô Hà Nội. Nguồn lực từ đất đai sẽ gia tăng giá trị rất lớn khi có quy hoạch tốt và Nhà nước có cơ chế, chính sách với nhiều phương thức đầu tư như BT, BOT, BOO hoặc ppp, đảm bảo hài hoà lợi ích của người dân – nhà đầu tư – Nhà nước, từ đó thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế, xã hội hoá lĩnh vực đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Vấn đề đặt ra đối với cơ quan quản lý Nhà nước là làm thế nào để kiểm soát và thu được nguồn lợi từ đất đai này để đầu tư trở lại cho đô thị, chứ không phải để nó rơi vào khâu trung gian hoặc giới đầu cơ. Nguồn vốn ngân sách của Nhà nước được sử dụng như nguồn vốn khởi động để khuyến khích các nguồn vốn: ODA, FDI vào xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật khung; thực hiện phân kỳ đầu tư và có thứ tự ưu tiên đầu tư. Chẳng hạn giai đoạn 2010 – 2020, tập trung nguồn lực xây dựng hạ tầng kỹ thuật như hoàn thiện các tuyến vành đai 3, vành đai 4, các tuyến giao thông huyết mạch, hạ tầng các KCN, khu thương mại đầu mối…; đảm bảo cân đối hợp lý giữa các mục tiêu và nguồn lực.
Về quản lý quy hoạch đô thị Đồ án quy hoạch xây dựng là một trong những công cụ quan trọng để quản lý phát triển đô thị, quản lý kiến trúc cảnh quan và hạ tầng kỹ thuật đô thị; nhưng không phải là công cụ “duy nhất” hiểu theo nghĩa là khi có đồ án QHXD có chất lượng được phê duyệt thì đô thị sẽ có bộ mặt khang trang về kiến trúc, cảnh quan và hạ tầng kỹ thuật đồng bộ. Bởi sau khi đồ án QHXD được duyệt, các cấp, các ngành và chính quyền đô thị cần phải quản lý và tổ chức thực hiện tuân thủ đúng theo QHXD được duyệt. trong nội dung của đồ án QHC Hà Nội còn có Quy định quản lý việc thực hiện QHC: Kiểm soát về không gian chiều cao, kiểm soát về chỉ tiêu, diện tích, mật độ, hệ số sử dụng đất cho các khu vực; khu vực được phép xây dựng; hạn chế xây dựng và cấm xây dựng; các khu vực bảo tồn và tôn tạo; các công trình di tích lịch sử, tôn giáo… Khi Chính phủ phê duyệt QHC đồng thời cũng phê duyệt quy định quản lý trên để tăng cường biện pháp kiểm soát, quản lý quy hoạch Hà Nội. Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo UBND Tp Hà Nội lập quy chế quản lý đô thị sau khi hoàn thiện QHC, các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết và thiết kế đô thị để đảm bảo thành công những mục tiêu đã đề ra. |
Những thông tin cần thiết về Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050: Không gian đô thị cho hiện tại và tương lai!
15