Thi công công trình và những giấy phép Khi giải quyết xong được “cái nút” huy động vốn và thành lập BQLDA, nhà đầu tư bắt đầu việc thi công công trình. Và, trước mắt các nhà đầu tư là một “ma trận” những giấy phép. Giấy phép đầu tiên phải có là Giấy phép xây dựng. Theo quy định hiện hành, có thể nói tất cả các công trình xây dựng trong một dự án đầu tư đều phải xin Giấy phép xây dựng. Có đến “một nghìn lẻ một điều đau khổ” của nhà đầu tư khi xin giấy phép này. Bởi lẽ, căn cứ cấp giấy phép xây dựng gồm: Sự phù hợp của dự án với quy hoạch xây dựng chi tiết được duyệt; bảo đảm các quy định về chỉ giới đường đỏ, chỉ giới xây dựng; thiết kế đô thị; các yêu cầu về an toàn đối với công trình xung quanh; bảo đảm hành lang bảo vệ các công trình giao thông, thủy lợi, đê điều, năng lượng, khu di sản văn hóa, di tích lịch sử – văn hóa và khu vực bảo vệ các công trình khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm khoảng cách theo quy định đối với công trình vệ sinh, kho chứa hóa chất độc hại, các công trình khác có khả năng gây ô nhiễm môi trường, không làm ảnh hưởng đến người sử dụng ở các công trình liền kề xung quanh… Công trình xây dựng của dự án vi phạm bất kỳ một chi tiết nào nêu trên, về nguyên tắc, đều không được cấp Giấy phép xây dựng. Dự án đầu tư là một hệ thống tổng hợp các công trình xây dựng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Song, giấy phép xây dựng được cấp cho việc xây dựng các công trình của toàn bộ dự án hay cho các công trình là bộ phận cấu thành của dự án? Đó là câu hỏi chưa được trả lời. Vì vậy, phần lớn các giấy phép xây dựng chỉ được cấp cho từng công trình của dự án. Thế là nhà đầu tư phải hoàn thành một “núi hồ sơ” xin cấp phép xây dựng. Chiều cao công trình vẫn là điều nhức nhối của nhà đầu tư khi xin giấy phép. Chẳng hạn, một dự án đầu tư xây dựng trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê, phần luận chứng kinh tế chỉ ra rằng, công trình phải có 15 tầng mới đạt hiệu quả kinh tế tối ưu. Song, cơ quan cấp phép chỉ cho phép xây đến 10 tầng vì….”cao quá, ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị”! Nếu cố tình vi phạm chắc chắn sẽ bị “cắt ngọn”. Song, cũng có thể người ta lại thuyết minh rằng, xây 15 tầng là để tiết kiệm diện tích đất và “phù hợp với thông lệ quốc tế”! Một dự án xây dựng nhà máy xi măng, để khắc phục ảnh hưởng của khói bụi đối với môi trường, ống khói càng cao sẽ càng tốt và dự án đã thiết kế ống khói cao là 50m. Nhưng ống khói được đặt trên một quả núi, nên chiều cao tính từ mặt đất của ống khói lại là 200m. Ống khói này đã không được cấp phép xây dựng với lý d cao quá, ảnh hưởng tới đường bay của máy bay! Chứng chỉ hành nghề trong xây dựng cũng là những giấy phép đặc biệt quan trọng đối với việc thi công công trình của dự án đầu tư. Để điều hành việc xây dựng công trình của dự án, cần có rất nhiều chức danh chuyên môn như: Kiến trúc sư; kỹ sư xây dựng; giám sát thi công xây dựng công trình, chủ nhiệm lập dự án, giám đốc tư vấn quản lý dự án; chủ nhiệm khảo sát xây dựng; chủ nhiệm thiết kế xây dựng công trình và chỉ huy trưởng công trường… Tất cả các chức danh nêu trên đều phải có chứng chỉ hành nghề được cơ quan có thẩm quyền cấp. Các Cty hoạt động độc lập trong từng lĩnh vực nêu trên lại phải đáp ứng những điều kiện khá khắt khe. Ví dụ, điều kiện năng lực của tổ chức tư vấn khi giám sát thi công xây dựng công trình hạng 1 được quy định như sau: Có ít nhất 20 người có chứng chỉ hành nghề giám sát thi công xây dựng công trình thuộc các chuyên ngành phù hợp; đã giám sát thi công xây dựng ít nhất 1 công trình cấp đặc biệt hoặc cấp I, hoặc 2 công trình cấp II cùng loại… Theo quy định của pháp luật, nhà đầu tư có thể giao thầu công trình cho các đơn vị chuyên hoạt động trong ngành xây dựng thực hiện và cũng có thể tự làm. Khi chọn phương thức giao thầu thì tùy theo loại công trình, tùy theo nguồn vốn sử dụng mà phải tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu. Về mặt kinh tế, nếu tự làm chi phí đầu tư sẽ giảm tới 30%. Song, khi thực hiện việc xây dựng công trình của dự án theo phương thức tự làm, các chứng chỉ hành nghề – những giấy phép con – nêu trên là những rào cản đáng kể. Có thể khẳng định rằng, không một nhà đầu tư nào thỏa mãn các điều kiện quy định về nhân sự để thực hiện phương án tự thực hiện khi xây dựng công trình. Vì vậy, cứ làm rồi “hợp pháp hóa” hồ sơ bằng cách thuê người có chứng chỉ ký vào những tài liệu cần thiết là biện pháp đối phó phổ biến hiện nay. Cần phải khẳng định rằng, quy định về các loại giấy phép như trên là rất cần thiết để bảo vệ chất lượng công trình, bảo vệ cộng đồng xét về mặt lý thuyết. Không ai có thể kiến nghị bỏ những giấy phép đó. Song, điều quan trọng là, làm thế nào để việc cấp những giấy phép, những chứng chỉ đó được thực hiện một cách khách quan và nghiêm minh, không bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người?. (Kỳ sau: Khánh thành công trình: Cười trong nước mắt) |
Quản lý dự án đầu tư – bức xúc từ thực tiễn (Bài 10)
289
previous post

