BÁO CÁO BỔ SUNG GIẢI TRÌNH, TIẾP THU Ý KIẾN Về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và sửa đổi, bổ sung Điều 121 của Luật Đất đai ____________________ Kính gửi: Uỷ ban thường vụ Quốc hội Ngày 01 tháng 10 năm 2008, Chính phủ đã có Tờ trình số 144/TTr-CP trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở. Ngày 11 tháng 10 năm 2008, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã họp để nghe và cho ý kiến về dự án Luật này. Thực hiện ý kiến kết luận của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tại cuộc họp nêu trên, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Xây dựng phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu chỉnh sửa lại Tờ trình của Chính phủ và dự thảo Luật. Ngày 19 tháng 01 năm 2009, Chính phủ đã có Báo cáo số 08/BC-CP giải trình, tiếp thu ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về dự án Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và sửa đổi, bổ sung Điều 121 của Luật Đất đai năm 2003. Ngày 18 tháng 02 năm 2009, Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội đã họp cho ý kiến thẩm tra về dự thảo Tờ trình của Chính phủ và dự thảo Luật này. Hầu hết các đại biểu dự họp đều nhất trí cho rằng, việc Chính phủ đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và sửa đổi, bổ sung Điều 121 của Luật Đất đai năm 2003 là hết sức cần thiết, góp phần khuyến khích bà con kiều bào về đầu tư tại Việt Nam để xây dựng đất nước, đồng thời thể chế hoá chủ trương của Đảng về chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài nêu tại Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị. Về ý kiến góp ý của các đại biểu dự họp, Ban soạn thảo xin giải trình để làm rõ thêm một số nội dung như sau: I. Về sự cần thiết phải trình Quốc hội thông qua dự án Luật sửa đổi – Có ý kiến đề nghị Chính phủ cần đánh giá nguyên nhân tại sao trên thực tế lại không có nhiều đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở theo Điều 126 của Luật Nhà ở, đồng thời cần đánh giá tác động của chính sách này đến thị trường bất động sản ở trong nước. Về vấn đề này, Ban soạn thảo xin giải trình như sau: Trong Báo cáo kết quả thực hiện Điều 126 của Luật Nhà ở và đánh giá tác động của việc trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Điều luật này gửi kèm theo Báo cáo giải trình số 08/BC-CP, Chính phủ cũng đã có báo cáo cụ thể. Theo đó, nguyên nhân có ít người Việt Nam định cư ở nước ngoài (chỉ hơn 140 trường hợp được sở hữu nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở) là do Điều 126 quy định còn hạn chế về đối tượng được sở hữu nhà ở. Trên thực tế, có những đối tượng có nhu cầu thực sự về nhà ở khi về Việt Nam làm việc, nhưng lại không được sở hữu nhà ở vì không thuộc diện quy định của Điều 126 như: nhà khoa học, nhà văn hoá không về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam hoặc người có quốc tịch Việt Nam, người có kỹ năng đặc biệt, người có trình độ đại học về Việt Nam làm việc ngắn hạn (dưới 6 tháng)… Về tác động của chính sách này đối với thị trường bất động sản, Ban soạn thảo nhận thấy, hiện nay nguồn cung nhà ở cho thị trường bất động sản ở trong nước là tương đối nhiều, qua thống kê về tình hình phát triển nhà ở trong 05 năm qua cho thấy, bình quân mỗi năm cả nước xây dựng được khoảng 37 triệu m2 nhà ở; riêng năm 2008 xây dựng được khoảng 50 triệu m2, trong đó tại đô thị là 28 triệu m2 (tương đương khoảng 500.000 căn), riêng tại TP. Hồ Chí Minh mỗi năm xây dựng được khoảng 5-6 triệu m2, còn TP. Hà Nội xây dựng được khoảng gần 2 triệu m2. Nguồn cung về nhà ở lớn, nhưng không phải khi chính sách này được ban hành thì tất cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ thực hiện mua nhà ở, mà chỉ có một số đối tượng có nhu cầu thực sự, có năng lực tài chính và có đủ điều kiện theo quy định mới được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Mặt khác, trên thực tế cũng đã có nhiều trường hợp nhờ người thân, bạn bè mua và đứng tên sở hữu nhà ở, sau khi có chính sách này thì họ sẽ thực hiện hợp thức hoá việc sang tên, chứ không phải mua mới. Như vậy, việc sửa đổi chính sách này theo hướng mở rộng đối tượng cũng sẽ không có tác động lớn đến thị trường bất động sản ở trong nước. – Có ý kiến cho rằng, Luật Đất đai đã được Quốc hội đưa vào Chương trình sửa đổi tại kỳ họp cuối năm 2009 và năm 2010, dự kiến sẽ có nhiều nội dung của Luật này được Quốc hội xem xét sửa đổi, do đó để bảo đảm tính đồng bộ thì trong dự án Luật này không nên đặt vấn đề sửa đổi Điều 121 của Luật Đất đai mà chỉ nên sửa đổi Điều 126 của Luật Nhà ở. Về ý kiến nêu trên, Ban soạn thảo xin giải trình như sau: trong Tờ trình số 144/TTr-CP báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội vào cuối năm 2008, Chính phủ cũng chỉ đề xuất sửa đổi Điều 126 của Luật Nhà ở. Tuy nhiên, theo ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, do nội dung Điều 126 của Luật Nhà ở có liên quan đến Điều 121 của Luật Đất đai, vì vậy khi trình Quốc hội sửa đổi Điều này thì cũng cần thiết phải sửa đổi luôn Điều 121 của Luật Đất đai để bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản luật. Thực hiện ý kiến kết luận của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, trong Báo cáo số 08/BC-CP, Chính phủ cũng đã thống nhất đề nghị bổ sung nội dung sửa đổi Điều 121 của Luật Đất đai vào dự thảo Luật này. Việc sửa đổi cụ thể 2 Điều luật nêu trên sẽ giúp người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các cơ quan thực thi pháp luật dễ dàng áp dụng, tránh trường hợp phải chờ Luật Đất đai sửa đổi mới có thể thực hiện được. II. Về một số vấn đề cụ thể 1. Về đối tượng và điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt – Có ý kiến cho rằng, việc Chính phủ đề xuất cho phép người có quốc tịch Việt Nam nêu tại điểm a khoản 1 Điều 1 của dự thảo được sở hữu nhiều nhà ở là hơi rộng, vì theo Luật quốc tịch năm 2008 thì có nhiều đối tượng được công nhận là có quốc tịch Việt Nam như: người có Giấy khai sinh, người có hộ chiếu Việt Nam hoặc có Giấy chứng minh nhân dân…nên chăng chỉ cho phép một số loại đối tượng nhất định được sở hữu nhiều nhà ở tại Việt Nam. Về vấn đề này, Ban soạn thảo xin giải trình như sau: theo quy định tại Điều 49 của Hiến pháp năm 1992 thì công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam và theo Điều 5 của Luật quốc tịch năm 2008 thì người có quốc tịch Việt Nam đều được công nhận là công dân Việt Nam (không phân biệt họ có các loại giấy tờ khác nhau chứng minh về quốc tịch). Để bảo đảm sự bình đẳng, công bằng trong vấn đề sở hữu nhà ở của những người được công nhận là công dân Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, đồng thời tạo tâm lý yên tâm cho các đối tượng này khi về nước làm ăn, sinh sống, thì không nên có sự phân biệt đối xử về quyền được sở hữu nhà ở tại Việt Nam của đối tượng này. Do đó, Ban soạn thảo đề nghị giữ nguyên như dự thảo. – Có ý kiến đề nghị bỏ đối tượng người gốc Việt Nam kết hôn với công dân Việt Nam ở trong nước nêu tại điểm b khoản 1 Điều 1, vì khi họ đã kết hôn với công dân Việt Nam thì sẽ trở thành người có quốc tịch Việt Nam như nêu tại điểm a khoản 1 Điều này. Về vấn đề này Ban soạn thảo cho rằng, trong Nghị quyết số 19/2008/QH12 của Quốc hội đã có quy định cho phép cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng này được phép mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam, thì trong Luật nhà ở sửa đổi cũng nên bổ sung trường hợp này để bảo đảm tính hợp lý giữa người Việt Nam định cư ở nước ngoài và cá nhân nước ngoài. Mặt khác, không phải người gốc Việt Nam nào khi kết hôn với công dân Việt Nam ở trong nước cũng mặc nhiên trở thành công dân Việt Nam, vì có đối tượng sẽ không đủ điều kiện hoặc không có nguyện vọng nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật quốc tịch năm 2008. Hơn nữa, mặc dù đối tượng này đã kết hôn với công dân Việt Nam ở trong nước, nhưng nếu Luật Nhà ở không có quy định cho họ được quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì họ cũng không được đứng tên sở hữu trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Do đó, Ban soạn thảo đề nghị giữ nguyên như dự thảo để có cơ sở công nhận quyền sở hữu nhà ở cho đối tượng này. – Có ý kiến đề nghị xem lại quy định về nhà văn hoá, nhà khoa học tại khoản 1 Điều 1 của dự thảo. Theo Luật Nhà ở hiện hành thì đối tượng này phải có nhu cầu về làm việc thường xuyên tại Việt Về vấn đề này, Ban soạn thảo xin giải trình như sau: theo Luật Nhà ở hiện hành thì nhà văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam mới thuộc diện được sở hữu nhà ở. Tuy nhiên, rất khó xác định điều kiện này trên thực tế. Hiện nay, có một số nhà khoa học đã về Việt Nam giảng dạy, hợp tác nghiên cứu, làm chuyên gia, nhưng vẫn không được sở hữu nhà ở, vì theo ý kiến của các cơ quan chức năng thì mỗi năm họ chỉ về một vài lần chứ không về Việt Nam thường xuyên. Do đó, để khuyến khích đối tượng này về nước làm việc, thì Chính phủ đã đề xuất bỏ cụm từ “có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam”, đồng thời tiếp thu ý kiến ở trên, bổ sung thêm cụm từ “mà Việt Nam có nhu cầu” cho hợp lý hơn. – Có một số ý kiến đề nghị xem xét lại quy định về điều kiện “đang tạm trú hợp pháp tại Việt Nam ” nêu tại Điều 1 của dự thảo, vì quy định như vậy sẽ rất rộng, nên chăng cần quy định cụ thể thời gian cư trú để bảo đảm chặt chẽ hơn. Ban soạn thảo nhận thấy rằng, tại khoản 1 Điều 126 của Luật Nhà ở hiện hành không có quy định hạn chế về thời gian cư trú mà chỉ quy định hạn chế đối với các đối tượng nêu tại khoản 2 Điều 126 là từ 6 tháng trở lên. Tuy nhiên, để bảo đảm sự chặt chẽ theo ý kiến của Uỷ ban kinh tế, Ban soạn thảo cũng nhất trí đề nghị bổ sung thêm điều kiện là phải được phép cư trú tại Việt Nam từ 03 tháng trở lên đối với các đối tượng nêu tại Điều 1 mới được sở hữu nhà ở. Quy định này nhằm hạn chế những trường hợp không có nhu cầu thực sự về nhà ở, nhưng lại mua nhà ở để kinh doanh, đồng thời cũng loại bỏ được những đối tượng chống phá đất nước về Việt Nam sở hữu nhà ở. 2. Về số lượng nhà ở mà người Việt Hầu hết các đại biểu đều nhất trí cho phép những đối tượng nêu tại khoản 1 Điều 1 của dự thảo được sở hữu nhà ở không hạn chế về số lượng. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, chỉ nên cho phép người Việt Về vấn đề này, Ban soạn thảo có ý kiến như sau: Từ năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81/2001/NĐ-CP, trong đó chỉ quy định cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua một nhà ở tại Việt Nam. Tuy nhiên, khi Quốc hội thông qua Luật Đất đai năm 2003 (tại Điều 121) và Luật Nhà ở năm 2005 (tại Điều 126), thì quy định này bị bãi bỏ, Quốc hội đã cho phép một số đối tượng thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều 126 được sở hữu nhà ở mà không bị hạn chế số lượng. Hiện nay, trong điều kiện mở rộng hợp tác quốc tế, với mục tiêu khuyến khích bà con kiều bào về nước sinh sống, đầu tư kinh doanh để góp phần xây dựng đất nước mà lại quy định bó hẹp quyền này theo hướng quay trở về như quy định năm 2001 thì không nên. Do đó, Ban soạn thảo đề nghị giữ nguyên như dự thảo. 3. Về quyền sử dụng đất ở của người Việt Có ý kiến đề nghị không nên quy định chung chung về quyền sử dụng đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài như dự thảo mà nên quy định cụ thể như tại khoản 2 Điều 121 của Luật Đất đai hiện hành để tránh nhầm lẫn cũng như phải dẫn chiếu nhiều luật khi áp dụng. Cũng có một số ý kiến cho rằng, mục tiêu sửa đổi Luật Nhà ở là tạo điều kiện để người Việt Qua nghiên cứu, Ban soạn thảo nhận thấy, ý kiến nêu trên là hợp lý nên đã tiếp thu và chỉnh sửa lại dự thảo. Như vậy, so với Điều 121 của Luật Đất đai hiện hành, thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ có thêm quyền cho thuê và uỷ quyền quản lý nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở, nhưng không được quyền góp vốn bằng nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất. 4. Về hiệu lực thi hành của Luật sửa đổi Có ý kiến đề nghị lùi thời hạn có hiệu lực thi hành của dự án Luật đến ngày 01/9/2009 để có thời gian cho Chính phủ chuẩn bị và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Ban soạn thảo thấy rằng, đề xuất này là hợp lý nên nhất trí đề nghị lùi hiệu lực thi hành của Luật này đến ngày 01 tháng 9 năm 2009. 5. Ngoài các ý kiến nêu trên, cũng có một số ý kiến đề nghị Chính phủ cần trình luôn cả dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành để các đại biểu nắm rõ thêm một số nội dung hướng dẫn về vấn đề tạm trú, về người có công với đất nước, về nhà văn hoá, nhà khoa học… Ban soạn thảo xin giải trình như sau: tại Điều 65 và Điều 68 của Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 9 năm 2006 hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở, Chính phủ đã có hướng dẫn cụ thể về nhà khoa học, nhà văn hoá, người có công đóng góp với đất nước và thế nào là trường hợp được hưởng giá trị của nhà ở. Tiếp thu ý kiến của một số đại biểu, Ban soạn thảo xin gửi kèm dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật sửa đổi lần này để Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến. Kính thưa Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Trên đây là báo cáo giải trình để làm rõ thêm một số nội dung nêu trong Báo cáo giải trình số 08/BC-CP của Chính phủ, cũng như dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và sửa đổi, bổ sung Điều 121 của Luật Đất đai mà Uỷ ban Kinh tế đã có ý kiến thẩm tra, Ban soạn thảo xin báo cáo để Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định./.
|
Về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và sửa đổi, bổ sung Điều 121 của Luật Đất đai
394
previous post

