Bài 8: Vay vốn cho dự án đầu tư – chặng đường đầy “chông gai”! Sau khi vượt qua các “cửa ải” đầu tiên và có trong tay quyết định hay công văn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc chấp thuận dự án, chủ đầu tư phải nghĩ ngay đến việc huy động vốn để thực hiện dự án. Bởi lẽ, với số tiền đầu tư hàng chục, hàng trăm tỷ đồng, ít có chủ đầu tư nào đủ trang trải bằng vốn tự có. Hơn nữa, ngay cả khi có đủ vốn, chẳng ai dại gì đầu tư cho dự án bằng toàn bộ vốn tự có của mình. Bởi lẽ, từ rất lâu rồi, các nhà khoa học đã chứng minh rằng, một dự án đầu tư sẽ mang lại hiệu quả tối ưu khi vốn tự có của chủ sở hữu/vốn vay ở tỷ lệ 30/70. Thế là, các chủ đầu tư, chủ yếu là các chủ đầu tư tư nhân, bắt đầu một cuộc “chạy maraton” để vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. >>Bài 1: Rắc rối từ khái niệm
Cửa đầu tiên và là cửa truyền thống mà các chủ đầu tư tìm đến là các ngân hàng thương mại. Trở ngại “nhỡn tiền” mà các chủ đầu tư gặp phải là tài sản thế chấp. Để vay được 10 tỷ đồng, nhà đầu tư phải có một hoặc một số tài sản có giá trị ít nhất là 15 tỷ để thế chấp. Hơn nữa, tài sản thế chấp ấy lại phải là BĐS, có thể dễ dàng mua, bán trên thị trường. Vượt qua được trở ngại này đâu có dễ vì các nhà đầu tư tư nhân Việt Nam nói chung còn rất ít tài sản mang tên quyền sở hữu của mình. Thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, trên lý thuyết là được phép. Nhưng, có thực hiện được điều đó hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyền của các ngân hàng. Lý do để các ngân hàng từ chối nhận thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay là, các tài sản của dự án đầu tư phần lớn là thiết bị, máy móc chuyên dùng. Chẳng may, dự án không đạt hiệu quả, chủ đầu tư không trả được nợ, ngân hàng chẳng biết sử dụng những thiết bị ấy làm gì và cũng chỉ có thể bán cho các lò cao luyện gang mà thôi! Vay vốn nhờ sự bảo lãnh của bên thứ ba cũng chỉ tồn tại trên lý thuyết đối với các dự án đầu tư tư nhân. Ai có đủ tài sản cá nhân để thế chấp vào ngân hàng bảo lãnh cho số tiền vay khổng lồ của dự án? Nhà nước thì đương nhiên không bảo lãnh cho dự án của DN tư nhân. Một quỹ bảo lãnh cho những trường hợp này là “Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DN nhỏ và vừa” đã có quyết định thành lập từ 10 năm về trước. Và, “rất may” là, nhờ có khoản tiền trong gói giải pháp kích cầu 1 tỷ USD của Chính phủ, đến nay, quỹ bảo lãnh này mới có vốn và bắt đầu hoạt động. Lãi suất tiền vay cũng là trở ngại không kém phần quan trọng. Vay vốn cho dự án đầu tư chắc chắn phải là vay trung hạn và dài hạn, từ 3 năm đến 10 năm. Lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại là lãi suất thị trường. Đó là điều tất nhiên vì các ngân hàng cũng là DN kinh doanh. Và, hơn nữa, lãi suất vay trung hạn, dài hạn lại cao hơn lãi suất vay ngắn hạn. Một chủ đầu tư thực hiện dự án có tổng đầu tư 500 tỷ đồng, vốn tự có 200 tỷ và vay ngân hàng 300 tỷ với lãi suất 1,1%/tháng đã kêu lên rằng, cứ sau một đêm ngủ dậy, tôi đã phải trả cho ngân hàng cả chục triệu đồng! Quỹ hỗ trợ phát triển nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam là địa chỉ lý tưởng cho việc vay vốn thực hiện các dự án đầu tư của nhà đầu tư tư nhân. Bởi lẽ, vay vốn ở đây sẽ có lãi suất thấp, có ân hạn về việc trả lãi và trả gốc, được thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Song, có lẽ những dự án vay được vốn ở địa chỉ này cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay mỗi năm. Đừng nộp hồ sơ xin vay nếu dự án không nằm trong danh mục được vay do Chính phủ quy định. Ngay cả khi dự án nằm trong danh mục, cũng đừng “mơ được vay” nếu không chịu chơi, không dám chấp nhận rủi ro khi tiền trao nhưng “cháo” chưa múc hoặc không có một thế lực thật mạnh ở bên trên tác động… Vay vốn từ nước ngoài ư? Đối với các nhà đầu tư tư nhân Việt Nam thì đó quả thực là “mơ về nơi xa lắm”. Vì phần lớn các tổ chức tài chính nước ngoài đòi hỏi phải có bảo lãnh của nhà nước hoặc một ngân hàng có uy tín. Hơn nữa, để chứng minh về năng lực tài chính của chủ đầu tư, phải có báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong hai năm gần nhất. Hầu hết các nhà đầu tư tư nhân Việt Nam đều tuyên bố “bótay.com” với những đòi hỏi này. Thế cho nên, trong những năm vừa qua, có khá nhiều “nhà tài chính” nước ngoài tung ra những điều kiện cho vay hấp dẫn và đã thực hiện những cú lừa vô cùng ngoạn mục không chỉ với các nhà đầu tư tư nhân mà cả với một số hiệp hội và quan chức… Chưa có ai thống kê và công bố, nhưng có thể ước tính rằng, có đến 40 – 50% số dự án đầu tư của nhà đầu tư tư nhân Việt Nam chết “bất đắc kỳ tử” vì không huy động được vốn đầu tư. Thật là đau xót cho sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân!
Luật gia Vũ Xuân Tiền |
Quản lý dự án đầu tư – bức xúc từ thực tiễn (bài 8)
184
previous post


