Bài 2: Thu hồi đất của nông dân – một chính sách lớn Ở nhiều nước trên thế giới, đất đai không thuộc sở hữu tư nhân, tức là bất kỳ một cá nhân nào cũng không có quyền sở hữu đất mà chỉ có quyền sử dụng đất. Ở nước ta, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể về kinh tế, chính trị ở từng giai đoạn lịch sử, có những quy định khác nhau về quyền sở hữu đất đai giữa các thời kỳ. Điều 12 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Các hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc quyền sở hữu của toàn dân” và Hiến pháp năm 1980 cũng quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm”. Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 quy định về sở hữu đất đai như sau: 1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. 2. Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau: a) Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất (sau đây gọi chung là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất); b) Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất; c) Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; d) Định giá đất. 3. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau: a) Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; b) Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; c) Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại. 4. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất”. Với chế tài pháp luật về sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai đã nêu, có thể khẳng định rằng, Nhà nước – với tư cách là chủ sở hữu đất đai trong một quốc gia, người có quyền định đoạt đối với đất đai – là chủ thể, chịu trách nhiệm chính đối với việc thu hồi diện tích đất của nông dân để chuyển giao cho mục đích công nghiệp hóa (CNH) và đô thị hóa (ĐTH). Thu hồi đất của nông dân để chuyển giao dưới các hình thức khác nhau cho mục đích CNH và ĐTH không đơn thuần là công việc mang tính hành chính. Đó là vấn đề vô cùng quan trọng có liên quan đến hàng loạt vấn đề về kinh tế, chính trị và xã hội. Ở một quốc gia mà nông dân chiếm gần 80% dân số như ở nước ta, vấn đề đó lại càng quan trọng hơn. Trước hết, đó là việc củng cố và duy trì lòng tin của hàng chục triệu nông dân vào sự lãnh đạo của Đảng và việc thực hiện tôn chỉ, mục đích của Đảng ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã thành công. Nhân dân, đặc biệt là tầng lớp nông dân, đã một lòng theo Đảng là vì chúng ta đã thực hiện đúng khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Vì vậy, nếu vì phục vụ cho CNH, HĐH mà chúng ta lấy đất của nông dân bất chấp những hậu quả sẽ xảy ra đối với đời sống của những người bị thu hồi đất thì lòng tin của nông dân vào sự lãnh đạo của Đảng sẽ bị xói mòn. Hơn nữa, nông dân trong giai đoạn hiện nay là những thế hệ mới, còn trẻ, không trải qua cuộc đấu tranh gian khổ như cha ông họ trước đây. Vì vậy, nếu gia đình họ bị mất đất ở và đất canh tác, lâm vào tình trạng nghèo đói thì ai dám đảm bảo rằng, thế hệ trẻ này sẽ một lòng theo Đảng? Khi lòng tin bị mất, cái gốc quan trọng nhất bảo đảm cho sự tồn tại của một thể chế tất yếu cũng bị lung lay. Tầm quan trọng của mối quan hệ với nông dân đã được V.I. Lênin chỉ ra khi áp dụng chính sách kinh tế mới ở Liên Xô (cũ) với phương châm “bắt đầu từ nông dân”. V.I. Lê nin viết: “10 – 20 năm quan hệ đúng đắn với nông dân thì thắng lợi được đảm bảo… nếu không thì là 20 – 40 năm đau khổ với sự khủng bố của bạch vệ”. (V.I.Lenin Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tập 43, trang 459). Bất kỳ một sai sót nào dù lớn hay nhỏ trong chính sách và thực thi chính sách nhằm thu hồi đất của nông dân để chuyển giao cho mục đích CNH, ĐTH đều dẫn đến những hậu quả ở những mức độ khác nhau tới lòng tin của nhân dân vào thể chế chính trị và pháp luật. Khi thu hồi đất của nông dân phục vụ cho CNH, ĐTH có hàng loạt vấn đề cần đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết. Song, vấn đề có vị trí quyết định và cũng phức tạp nhất là chính sách tài chính về đền bù, hỗ trợ nông dân khi bị thu hồi đất. Bởi lẽ, thu hồi đất tức là thu hồi một tư liệu sản xuất đặc biệt và quan trọng nhất của nông dân. Ai cũng có thể thấy rằng, cuộc sống của người nông dân sẽ như thế nào khi bị mất đi tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Là chủ sở hữu, Nhà nước có quyền thu hồi đất. Do đó, Nhà nước cũng là chủ thể của việc đền bù, hỗ trợ về mọi mặt, trong đó, quan trọng nhất là về mặt tài chính, cho những người nông dân bị thu hồi đất. Hơn nữa, việc đền bù, hỗ trợ đó phải đảm bảo cho những người nông dân bị thu hồi đất, bao gồm cả những thế hệ nối tiếp của họ, có cuộc sống ổn định và tốt đẹp hơn. Đảng và Nhà nước sẽ có tội với nhân dân nói chung, với nông dân nói riêng nếu thu hồi đất của nông dân và đẩy họ vào tình trạng bần cùng hóa. (Kỳ sau: Thực trạng của việc thu hồi đất trong những năm vừa qua) Luật gia Vũ Xuân Tiền |
Chính sách bồi thường cho nông dân khi bị thu hồi đất – Cần cải cách triệt để và toàn diện
232

