Trang chủ » Những người thợ và những công trình

Những người thợ và những công trình

bởi Kien Truc - Kientruc.vn

Ðất nước trên đường phát triển, những công trình đáp ứng yêu cầu “quốc kế, dân sinh” đã và đang ra đời ở khắp mọi miền. Và trên các công trình ấy, những người công nhân Việt Nam đang ngày đêm miệt mài mang trí lực của mình góp phần xây dựng Tổ quốc…


Ta-Luy phun bê-tông khô tại hầm số 10 trên đèo Hải Vân.

Bước theo hai làn đường ray dài hơn chục cây số trên đoạn đường sắt qua đèo Hải Vân để đi từ hầm này sang hầm khác, thi thoảng tôi dừng lại ở một trạm gác cửa hầm, phần để nghỉ chân, phần vì muốn hỏi chuyện những anh công nhân trong trạm. Các trạm gác đều khá rộng rãi nhưng như bị lọt thỏm giữa một bên là vách núi dựng đứng, một bên là biển trời mênh mông. Tôi đến đúng một ngày mưa dầm và biển động, nên núi như thâm nghiêm hơn và biển như cũng dữ dội hơn. Vậy mà ở nơi hiu quạnh ấy, mỗi người công nhân trực một trạm, trực 24/24 giờ, bất kể nắng mưa, bất kể là lễ Tết hay ngày nghỉ. trạm hầm số 11 là trương Ngọc Hồ, trạm hầm số 10 là phạm phú Hải… Thấy tôi ghé vào, các anh cười thật tươi, tôi nghĩ ngoài lòng mến khách, đó còn là niềm vui của những người công nhân quanh năm lụi hụi làm việc một mình ở nơi không người qua lại. phạm phú Hải trực cửa hầm số 10 đã chín năm, trương Ngọc Hồ có ba năm ở cửa hầm 11 còn tổng số thời gian anh đã trực tại các cửa hầm khác nhau trên đường sắt đèo Hải Vân là 20 năm. Các anh vừa trông coi đường hầm, vừa ngăn chặn hành vi vi phạm, bảo đảm an toàn cho những đoàn tàu. Gần chục năm nay, phạm phú Hải đã quen với công việc, “bạn bè” thường ngày của anh là chiếc ra-đi-ô và mấy tờ báo do cơ quan đưa tới. Mỗi tuần, anh về Ðà Nẵng với vợ con vài buổi rồi lại ra trạm. Khi đi mang theo thực phẩm để sớm chiều “nước lọ cơm niêu”. Các anh làm tôi nhớ tới anh công nhân khí tượng trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa của nhà văn Nguyễn Thành Long, một mình trên đỉnh núi cao, lấy công việc làm niềm vui. Cuộc sống được làm nên bởi rất nhiều công việc thầm lặng, nhỏ bé, nhưng đó là “bánh xe, đinh ốc” không thể thiếu để “cỗ xe cuộc sống” có thể vận hành, và các công việc ấy luôn cần tới nghị lực, sức chịu đựng không phải dễ ai cũng có được.


Lắp đặt máy phát điện tại Nhà máy nhiệt  điện Lục Ngạn – Bắc Giang (ảnh: Baoxaydung.vn)

Sống và làm việc ở nơi “đèo heo hút gió” như thế, điều làm các anh e ngại không phải là nỗi buồn hay sự vất vả, mà là điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên, là nguy cơ từ trên trời, từ trên núi có thể ập tới bất cứ lúc nào, nhất là vào mùa mưa bão. Hơn năm vừa rồi, các anh đỡ quạnh quẽ vì có cán bộ, công nhân thi công Dự án gia cố khẩn cấp đường sắt khu vực đèo Hải Vân qua lại, giờ họ đã hoàn tất công việc, chuyển đi nơi khác. Chỉ lên vách núi cao mấy chục mét ngay trên cửa hầm số 10 đã được phủ một lớp bê-tông dày, phạm phú Hải bảo với tôi:

– Mới năm ngoái thôi, hằng ngày nhìn lên vách núi kia là nhìn thấy nguy hiểm, đất đá luôn đe dọa đổ xuống cửa hầm. Giờ thì yên tâm rồi anh ạ!

 Vách núi dựng đứng và lồi lõm được “bê-tông hóa” ấy là một trong các hạng mục công trình do cán bộ, công nhân Xí nghiệp 875 Công ty công trình đường sắt thực hiện, cũng là một trong những hạng mục thi công khó nhất, được tiến hành bằng phương pháp “phun bê-tông khô” theo công nghệ của pháp, lại không có sự hỗ trợ của chuyên gia nước ngoài. Ở công trình này, đưa xi-măng, cát tới chân núi đã là việc vất vả, nhưng đẽo gọt, rửa sạch vách núi để phun chất kết dính lên trên còn vất vả hơn nhiều. Sau đó lại phun phủ một lớp bê-tông dày, hàn lắp sắt thép để làm “cốt” dựng khắp vách núi, rồi phun tiếp một lớp bê-tông lên trên. Cuối cùng là khoan thẳng vào vách đá để đặt cọc neo, cọc neo dài nhất là 3,5 m để gắn chặt lớp bê-tông vào vách núi… Hai ta-luy như vậy đã được xây dựng ở cửa phía bắc hầm số 10 và cửa phía nam hầm số 12, ta-luy cửa hầm số 12 cao 32 m có diện tích hơn 2.000 m2. Hai hạng mục này vừa hoàn thành thì lập tức được thử thách bởi các cơn bão số 9, 10, 11. Nghe kể lại thì những hôm có bão, trời mưa như trút, nước ào ào tràn theo vách núi, nhưng không có sự cố nào xảy ra, vậy là “ông trời đã nghiệm thu công trình” trước khi xí nghiệp bàn giao. Vừa chỉ đạo anh em công nhân thu dọn máy móc để đưa lên xe “goòng”, kỹ sư Nguyễn Xuân Bích, Giám đốc Xí nghiệp 875, vừa bảo với tôi:

– “phun bê-tông khô” là công nghệ có khả năng tăng cường sự bền vững của công trình, nhưng yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật rất cao. Thi công trên địa hình phức tạp, lại phải bảo đảm cho các đoàn tàu hằng ngày vẫn qua lại bình thường, thì chỉ một sơ suất nhỏ là có thể gây ra sự cố, mà anh biết đấy, nếu sự cố xảy ra trên đường đèo thì sẽ kéo theo bao nhiêu khó khăn. Xây dựng công trình theo lệnh của Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi xác định làm đúng tiến độ song không làm ẩu, làm nhanh nhưng bảo đảm chất lượng và an toàn, nên vừa rồi, các hạng mục do xí nghiệp thi công đã được nghiệm thu với chất lượng tốt.

Ðến các công trình gia cố khẩn cấp đường sắt khu vực Hải Vân, tôi thấy nhiều người nhắc tới lão công nhân Nguyễn Thành Lân với lòng kính trọng đặc biệt. Gọi là lão công nhân vì năm nay ông 74 tuổi, học trung cấp kỹ thuật đường sắt năm 1960, năm 1963 ông ra trường và liên tục làm nghề đến ngày về hưu. Nhưng nghỉ hưu mà ông “không chịu nghỉ nghề”, các công trình đòi hỏi kỹ thuật và kinh nghiệm vẫn cần đến ông, ở đâu khó khăn là ông lại khăn gói lên đường, mang trí tuệ và kinh nghiệm đúc rút được sau mấy chục năm trời góp sức cùng với con cháu. Biết tôi muốn gặp ông để “mục sở thị”, Lương Xuân Quỳnh ở Xí nghiệp 875 bảo tôi: “Mời anh vào phú Yên, cụ đang tham gia khắc phục và củng cố đường sắt ở trong đó”. Thế thì chịu rồi, đành phải làm cái việc bất đắc dĩ là ngắm và hình dung lão công nhân Nguyễn Thành Lân qua ảnh vậy. Vóc dáng to khỏe và gương mặt kiên nghị, đó là ấn tượng của tôi về người lão công nhân nổi tiếng trên những nẻo đường sắt miền trung. Lại nhớ đầu năm 2009 tôi gặp Tổng Giám đốc Công ty công trình đường sắt Nguyễn Thanh Huyền – Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Anh Huyền vào ngành năm 1966, đã góp phần sinh tử để các con đường, các cây cầu đường sắt ở miền bắc thông suốt, chi viện cho miền nam. Máy bay, bom đạn, đi khắp nơi, thiếu thốn đủ đường, anh vẫn cùng đồng nghiệp hoàn thành những công việc mà hôm nay chúng ta vẫn gọi là kỳ tích. Còn khi thấy tôi hỏi công việc từ sau năm 1975 đến nay, thì anh cười và bả

– Tôi không nhớ mình đã ở bao nhiêu chiếc lán công trường, đã dừng chân ở bao nhiêu địa điểm trên khắp các tuyến đường sắt ba miền, riêng số lần dọn nhà thì tôi nhớ, 26 lần cả thảy. Với người thợ công trình, đường sắt ở đâu là nhà ở đó, chỉ cần nghĩ được như thế là mọi sự trở nên nhẹ nhàng.

26 lần dọn nhà – quả là một kỷ lục, thấy tôi nói vậy, anh Huyền lại cười: “Gọi là dọn thôi, chứ đồ đạc thì có gì đâu. Xong công trình là lại đi, như thế mãi thành quen”. Dường như công việc và suy nghĩ anh Nguyễn Thanh Huyền cũng không khác nhiều so với thế hệ công nhân lớp sau, vì tôi đã gặp ở Xí nghiệp 875 nhiều người như thế. Lương Xuân Quỳnh là cán bộ phòng Kỹ thuật của công ty được cử vào phụ trách làm ga đỉnh đèo, tới khi triển khai công trình thì anh ở lại làm việc luôn, ở đến tận bây giờ. Nguyễn Ngọc Huế nhà ở Huế, 33 tuổi nhưng đã có 15 năm trong nghề. Công trình này là gần nhà anh nhất, hằng tháng được về với vợ con vài ngày, công trình ở xa như trong miền nam hay ngoài miền bắc thì có khi phải vài tháng anh mới tạt qua gia đình. Riêng anh lái máy xúc Nguyễn Ngọc Ðương thì đúng là một trường hợp rất đáng trân trọng. Nhà ở Ðà Nẵng, những ngày bão lụt vừa qua, nhà bị ngập, vợ con phải tự lo toan, còn anh ở lại giữa lưng chừng núi, cố gắng san gạt kịp thời không để nước mưa đẩy đất đá tràn xuống lấp cửa hầm. Vừa làm việc vừa lo lắng cho gia đình, rồi anh cũng vượt qua. Kể cho tôi nghe chuyện đó xong, Nguyễn Ngọc Ðương tâm sự:

– Nhà cửa, vợ con thì ngập dưới nước, mình thì lại ở trên núi cao, may mà vợ con thông cảm, nếu có trách móc thì em cũng không biết trả lời thế nào.

Ngoài những công nhân trực ở trạm cửa hầm hưởng lương theo bậc nghề và phụ cấp, thì với các công nhân đang lao động tại công trình, mỗi khi thấy tôi hỏi đến thu nhập thì đều cho rằng, phương thức khoán gọn rất phù hợp, thu nhập của mỗi người tỷ lệ thuận với công sức và trình độ tay nghề. Với người thợ công trình, muốn có nhiều việc làm phải biết triệt tiêu cái thói quen “được ở gần nhà”, mà xa mấy cũng cố gắng đi. Xác định như thế nên các anh không nề hà, lãnh đạo cũng yên tâm khi xây dựng kế hoạch hoạt động sao cho có hiệu quả cao, bảo đảm quyền lợi của công nhân, không phân biệt người làm việc trên công trường hay làm việc tại các cơ sở sản xuất phục vụ thi công. Và tôi đã được kiểm chứng điều này khi đến Xưởng chế tạo kết cấu thép của Xí nghiệp 875. Mới hơn 16 giờ mà trời miền trung đã tối, dãy đèn pha trong xưởng sáng trưng, tiếng máy ầm ầm, không khí làm việc vẫn náo nhiệt như chưa vào lúc xế chiều. Lửa hàn liên tiếp lóe sáng, các tấm thép lớn nhỏ lên xuống, xoay trở để từ đó hình thành nên những khung, những dầm của các cây cầu tương lai. Vợ chồng phạm Thị Thu – Hoàng Cát Anh cùng là thợ hàn bậc 5/7, từ Thanh Hóa vào đây lập nghiệp. Khi tôi đến bên cạnh, chị Thu  bỏ chiếc mặt nạ thợ hàn xuống rồi cười thật tươi. Thấy hỏi về công việc và cuộc sống gia đình, chị bả “Ở xưởng này công việc khá nhiều, chịu khó làm thì thu nhập của hai vợ chồng cũng tạm ổn, bây giờ làm gì cũng thế thôi, lười nhác thì làm sao sống được”. Rồi khi nghe Nguyễn Minh Hợi thợ sắt bậc 5/7 đã có 18 năm trong nghề, kể về vợ con, về nỗi vất vả của người thợ với giọng hồ hởi, tôi càng hiểu, đối với những người công nhân ở đây, tình yêu đối với công việc đồng vọng với tình yêu cuộc đời, và mọi người đều mong muốn làm nên cuộc sống bằng chính bàn tay và khối óc của mình.

Ngoài sân, những chiếc khung cầu do Xưởng chế tạo vươn các thanh trụ sắt to cao lừng lững in hình lên nền trời. Một ngày không xa, những chiếc khung cầu sẽ chuyển đến nơi nào đấy, để từ đó ra đời những cây cầu góp phần vào sự vươn xa, lan rộng của hệ thống giao thông. Và rồi, khi mỗi cây cầu làm xong, những người công nhân lại lên đường, để lại phía sau những công trình như là biểu hiện của một đất nước đang phát triển. Lớp cha ông đến lớp con cháu, những người công nhân đã thành một đội ngũ, chung tay xây dựng, làm giàu cho đất nước. trên nẻo đường đèo tôi đã đi qua, 41 hạng mục của Dự án gia cố khẩn cấp đường sắt khu vực đèo Hải Vân đã hoàn thành. Những chiếc cọc nhồi có đường kính 1,2 m được nhồi sâu đến 21 m, những bức tường chắn bê-tông cốt thép dài hàng trăm mét, những bức ta-luy rộng hàng nghìn mét vuông đã được “bê-tông hóa”,… đưa đến cảm giác an toàn trên một đoạn đường hiểm trở. Hàng nghìn tấn sắt thép, hàng nghìn tấn xi-măng, hàng vạn tấn đá, cát đã được huy động để xây dựng nên các công trình bảo đảm an toàn không chỉ cho những chuyến tàu mà quan trọng hơn, là vì sự an toàn của tính mạng con người. Chính vì thế, các công trình mà những người thợ đã xây dựng trên đèo Hải Vân như còn mang chứa trong chúng cả các giá trị nhân văn, hướng đến con người và vì con người.

Có thể bạn cũng thích

Về KIẾN TRÚC.VN

Kientruc.vn là trang thông tin dành riêng cho những ai đam mê kiến trúc và xây dựng, nơi hội tụ của những ý tưởng sáng tạo, giải pháp đột phá, và niềm đam mê cháy bỏng với nghề. Hơn cả một nền tảng trực tuyến, chúng tôi mong muốn trở thành người bạn đồng hành, kết nối kiến trúc sư, kỹ sư, chủ đầu tư, giữ lửa đam mê và chung tay tạo nên những công trình đẹp làm rạng danh Việt Nam.

@2006 – All Right Reserved. Designed and Developed by kientruc.vn.