LTS: Trong hơn 20 năm đổi mới, ngành Xây dựng nước ta đã có những bước tiến bộ khá lớn trong kỹ thuật, công nghệ. Nhiều cây cầu, đường giao thông, nhà máy… hiện đại đã hoàn thành với trí tuệ của đội ngũ kỹ sư, công nhân Việt Nam. Đó là niềm tự hào, song, trong lĩnh vực quản lý các dự án đầu tư, chúng ta lại chưa có những bứt phá cần thiết. Từ số này, Báo Xây dựng trân trọng giới thiệu loạt bài viết của Luật gia Vũ Xuân Tiền, Ủy viên BCH Hội Luật gia TP Hà Nội, Tổng giám đốc Cty CP Tư vấn quản lý và Đào tạo VFAM Việt Nam, đề cập đến những bức xúc từ thực tiễn của công tác quản lý các dự án đầu tư chủ yếu và quan trọng, nhất là các dự án đầu tư xây dựng công trình. Rất mong bạn đọc tham khảo và tranh luận thêm về vấn đề quan trọng này.
Để có thể nghiên cứu và thiết lập được quy trình hợp lý, khoa học trong quản lý các dự án đầu tư, câu hỏi trước hết cần giải đáp là: Thế nào là một dự án đầu tư? Và từ đó, cần làm rõ thế nào là đầu tư trực tiếp, thế nào là nhà đầu tư? Vấn đề tưởng chừng đơn giản nhưng lại không dễ có được ý kiến đồng thuận. Luật Đầu tư năm 2005 đưa ra khái niệm: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản, tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Ngay khi thảo luận về dự thảo Luật Đầu tư, nhiều ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu, các nhà quản lý cho rằng, khái niệm nêu trên đã rơi vào vòng luẩn quẩn. Bởi lẽ, mục đích của việc đưa ra khái niệm là làm rõ thế nào là đầu tư. Song, khái niệm được ghi nhận trong Luật Đầu tư lại cho rằng “đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn… tiến hành các hoạt động đầu tư”. Với khái niệm về đầu tư trong Luật, chúng ta đã lấy cái chưa rõ để định danh cho một cái chưa rõ. Từ đó, đã có một ý kiến khác: “Đầu tư là đem một khoản tiền của sử dụng vào một việc nhất định với mong muốn trong dài hạn (thường là sau một năm) thu được một khoản tiền của có giá trị lớn hơn”. Ý kiến này đã nêu rõ những đặc trưng cơ bản của đầu tư là đem một khoản tiền (có thể là bằng tiền hoặc bằng tài sản) để sử dụng vào một việc nhất định để trong dài hạn có thể thu được một giá trị lớn hơn. Khái niệm này đúng với mọi hành vi đầu tư. Rất tiếc là ý kiến nêu trên đã không được thừa nhận trong Luật Đầu tư. Một vấn đề không kém phần quan trọng được đề cập đến ngay trong khái niệm về đầu tư của Luật Đầu tư là: Thế nào là nhà đầu tư? Luật Đầu tư 2005 ghi nhận: “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Một ý kiến khác: “Nhà đầu tư là những thể nhân hoặc pháp nhân thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật”. Ý kiến phản biện cho rằng, khái niệm về nhà đầu tư trong Luật Đầu tư không rõ ràng vì để hiểu được khái niệm đó lại cần trả lời câu hỏi: Thế nào là hoạt động đầu tư? Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng toàn diện, không thể chỉ giới hạn trong khuôn khổ “theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Nếu theo khái niệm trên, phải chăng việc các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư không phải là nhà đầu tư? Thế nào là hoạt động đầu tư? Đây cũng là vấn đề rất quan trọng để xác định rõ đối tượng quản lý trong đầu tư. Luật Đầu tư quy định: “Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư”. Nhiều ý kiến trao đổi, phản biện cho rằng, khái niệm về hoạt động đầu tư nêu trên chưa đầy đủ. Trong quá trình thực hiện một dự án đầu tư, chủ đầu tư có rất nhiều việc phải làm, tất cả những công việc đó là hoạt động đầu tư. Vì vậy, sẽ khó có thể liệt kê hết những việc phải làm của chủ đầu tư để coi đó là hoạt động đầu tư. Vì vậy, có thể cho rằng, hoạt động đầu tư chính là việc đầu tư. Không cần thiết và không thể đưa ra một khái niệm về hoạt động đầu tư. Dự án đầu tư là đối tượng trực tiếp của công tác quản lý. Vậy, thế nào là dự án đầu tư? Luật Đầu tư 2005 ghi nhận: “Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định”. Rất nhiều ý kiến trao đổi, phản biện về khái niệm này và cho rằng, cần làm rõ hai khái niệm là Dự án và Dự án đầu tư. Các nhà nghiên cứu, phản biện cho rằng: “Dự án là tập hợp các hoạt động có liên quan đến nhau nhằm đạt được một hoặc một số mục tiêu nhất định, được thực hiện trong một thời gian nhất định, dựa trên những nguồn lực xác định”, và “Dự án đầu tư là dự án tạo dựng nên những năng lực mới (về lượng, về chất) trong sản xuất sản phẩm hay tiến hành dịch vụ nhằm đạt được một hoặc một số mục tiêu nhất định, được thực hiện trong một thời hạn nhất định, dựa trên những nguồn lực nhất định”. Khoa học về quản lý kinh tế của Việt Nam và các nước phát triển đều phân biệt giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đây là sự phân biệt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, cơ chế, chính sách trong quản lý đối với đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp có sự khác nhau rất cơ bản. Luật Đầu tư quy định: “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Nhiều ý kiến phản biện cho rằng, khái niệm nêu trên vừa thừa, vừa thiếu. Quy định “nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư” là thừa vì nếu không bỏ vốn thì không phải là nhà đầu tư. Quy định “tham gia quản lý hoạt động đầu tư” là chưa đủ, dễ gây nhầm lẫn và cho rằng, nhà đầu tư chỉ cần tham gia quản lý hoạt động đầu tư, trong khi đó, nhà đầu tư cần tham gia quản lý toàn bộ quá trình từ đầu tư ban đầu đến các hoạt động kinh doanh của dự án. Vì vậy, các ý kiến phản biện đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp là phương thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia công cuộc quản trị kinh doanh”. Những vấn đề đã trình bày trên cho thấy, trong công tác quản lý đầu tư ở nước ta hiện nay, vẫn còn rất nhiều vấn đề chưa thống nhất về mặt lý luận. Có ý kiến cho rằng, chúng ta không nên câu nệ quá mức về những vấn đề khái niệm, câu chữ. Ý kiến đó có thể đúng trong một bối cảnh cụ thể nào đó. Song, không thể từ đó để bỏ qua những vấn đề về lý luận cơ bản, có ý nghĩa chi phối toàn bộ việc hoạch định các cơ chế, chính sách trong quản lý. Sẽ không có một cơ chế, chính sách nào trong quản lý có hiệu quả tích cực khi chúng ta chưa xác định rõ đối tượng cần quản lý là gì. Vì vậy, đã đến lúc, cần đặt ra và mổ xẻ kỹ hơn, khách quan hơn và trên những căn cứ khoa học về những vấn đề còn đang tranh luận. Đó là khâu mở đầu rất quan trọng để “tái cấu trúc” cơ chế, chính sách và quy trình quản lý các dự án đầu tư.
Luật gia Vũ Xuân Tiền |
Quản lý dự án đầu tư: Búc xúc từ thực tiễn (Bài 1)
239
previous post