“Sai một ly…” trong khâu thiết kế, chọn dự án Trong lúc, mục tiêu chính đặt ra trong báo cáo tiền khả thi của Dự án vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè rất lớn, gồm hoàn chỉnh hệ thống thoát nước mưa, nước thải đã được xử lý đạt chuẩn cấp II trước khi thải ra sông… với tổng mức đầu tư chỉ có 67,93 triệu USD không được chọn, thì mục tiêu của dự án khả thi tuy mới chỉ dừng lại ở mức: Chống ngập úng cho lưu vực và thoát nước thải “thô” ra sông Sài Gòn… Mặc dù hạng mục có chi phí đầu tư lớn là 2 trạm xử lý nước thải đạt chuẩn cấp II, tới 46,25 triệu USD đã bị loại bỏ, chuyển sang thực hiện ở giai đoạn sau nhưng kinh phí lại “đội” lên tới 199,96 triệu USD. Kẹt xe tại đoạn đường phía trước là “lô cốt”.
Trước tình trạng ngập lụt trong lưu vực và ô nhiễm nguồn nước trên tuyến kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè ngày càng trầm trọng, ngay từ năm 1993 – 2000, TP HCM đã đầu tư bước đầu cho kế hoạch chống ngập nước, ô nhiễm cũng như giải quyết vấn đề ách tắc giao thông cho khu vực với tổng mức đầu tư khoảng 1.600 tỷ đồng. Sau đó, Thành phố tiếp tục chi gần 1 triệu USD cho việc tiến hành khảo sát, lập dự án giải quyết triệt để vấn đề tiêu thoát nước, cải thiện ô nhiễm môi trường lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Đến tháng 9/1999, dự án được hoàn thành nhưng khi đưa ra phản biện, dự án này đã bị nhiều nhà khoa học phản đối do có nhiều sai sót và chi phí quá tốn kém.

TS Trương Đình Hiển, cán bộ Phân viện Vật lý tại TP Hồ Chí Minh thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia đã cho rằng: “Trong 7 phương án xử lý nước thải cho lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã được đưa ra, đơn vị lập dự án đã kiến nghị chọn phương án xử lý nước thải bằng cách phân tán tại Trạm Rạch Miễu, Trạm Văn Thánh do Công ty Newtech cùng các nhà khoa học Liên bang Nga đề xuất. Tổng kinh phí đầu tư theo phương án này chỉ tốn gần 49,8 triệu USD cùng một khoản kinh phí vận hành hàng năm gần 4 triệu USD, song đáng tiếc là phương án này đã không được áp dụng”.
Cũng theo TS Hiển, về vấn đề thoát nước mưa, báo cáo tiền khả thi của dự án chưa phân định và đánh giá được mức độ gây ra ngập nước đối với từng nguyên nhân: Vùng nào ngập nước do thủy triều, vùng nào ngập nước do mưa… Chính vì thế nên không thể xác định được khu vực nào hệ thống cống còn có thể dùng được; khu vực nào cần cải tạo mở rộng hệ thống cống…
GS.TS Trần Ngọc Giao, Phó Giám đốc ĐHQG – TP Hồ Chí Minh, Tổng Thư ký Hội Vật lý TP Hồ Chí Minh khi đó cũng đã kết luận: “Dự án không hiệu quả, cả về tính khả thi lẫn về góc độ kinh tế – xã hội và vệ sinh môi trường”. Thậm chí, khi dự án nghiên cứu khả thi đã được phê duyệt vào tháng 5/2000 thì đến tháng 9/2000, báo cáo đánh giá tác động về môi trường mới được hoàn thành!
“Đi” ngay hàng chục triệu USD khi đầu tư
Để đạt được mục tiêu xử lý nước thải cấp II trong giai đoạn sau, Dự án khả thi đã đề xuất mức kinh phí đầu tư lên tới gần 246,7 triệu USD. Ở giai đoạn 2 này, đơn vị lập dự án đã cho rằng: “Đặt 2 nhà máy xử lý nước thải cách xa nhau 4 km thì không đem lại hiệu quả kinh tế. Vì thế nên tiết kiệm đầu tư bằng cách kết hợp hai nhà máy thành một”.
Nhưng theo tính toán của những người lập dự án, chỉ để đưa nước thải từ kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè ra đến nhà máy xử lý nước thải tại Cát Lái, quận 2 sẽ “ngốn” hết 56,26 triệu USD. Như vậy, tổng kinh phí sẽ tăng khoảng 660% so với ban đầu.
Phản biện về vấn đề này, nhà thầu CDM cho rằng: “Giải pháp bùn hoạt tính áp dụng cho việc xử lý nước thải ở giai đoạn 2 là tối ưu…”. KS Bùi Thế Hưng, đại diện cho nhóm tác giả của Trung tâm Centec đã chỉ ra rằng: “Giải pháp này đòi hỏi diện tích bể xử lý quá lớn, dẫn đến việc phải đầu tư lớn cho việc xây dựng nhà máy xử lý nước thải. Từ việc đề xuất và được chấp thuận với hạng mục này đã kéo theo việc không thể xây dựng nhà máy xử lý nước thải trong giai đoạn I… Từ đó “đẩy” kinh phí đầu tư của dự án lên, tăng thêm gần 70 triệu USD”.
Đề cập đến sự hiện diện “thừa” của hạng mục xây dựng tuyến cống bao ngầm trong dự án với chi phí hơn 30 triệu USD chỉ để làm mỗi một việc dẫn nước thải trong mùa khô đổ trực tiếp ra sông Sài Gòn. Bởi mùa mưa, nước thải đã hòa với nước mưa trước khi chảy ra kênh, TS Hiển phân tích: “Nếu không có tuyến cống bao ngầm, lượng nước thải trong mùa khô trong lưu vực khoảng 93 ngàn m3/ngày sẽ đổ trực tiếp vào kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Được pha loãng với lượng nước thủy triều chảy vào kênh lên đạt hơn 2 triệu m3/ngày đêm sẽ cho ra tỷ lệ hợp lý là 1/20 trước khi đổ vào sông Sài Gòn”.
Bên cạnh đó, chưa kể phần chi phí đầu tư xây dựng trạm bơm và thiết bị lược rác trị giá 19,66 triệu USD, để đạt được công suất bơm tối đa 64 ngàn m3/h, phải lắp đặt 20 máy bơm. Hạng mục này, theo nhận định của Phó GS.TS Cao Minh Thì: “Hiệu quả kinh tế không cao và quá tốn kém” bởi để duy trì hoạt động của trạm bơm này ít nhất phải cần một nguồn điện từ 6 – 12mW chưa kể khoản kinh phí duy tu, bảo dưỡng vận hành và kiểm soát… hằng năm.
Theo CAND

