LTS: Hiện nay, Bộ Xây dựng có chủ trương lớn là chuyển đổi các TCty trực thuộc thành các Tập đoàn kinh tế theo mô hình Cty mẹ – Cty con. Đối với nước ta, đây là vấn đề mới, rất phức tạp cả về lý luận cơ bản và cơ sở pháp lý. Luật gia Vũ Xuân Tiền, Ủy viên BCH Hội Luật gia TP Hà Nội, Tổng giám đốc Cty CP Tư vấn Quản lý và Đào tạo VFAM Việt Nam – một chuyên gia có nhiều năm nghiên cứu về Tập đoàn kinh tế và mô hình Cty mẹ – Cty con – đã gửi tới Báo Xây dựng một số bài viết trình bày một cách hệ thống về vấn đề quan trọng nêu trên. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc để tham khảo và trao đổi. Bài 1: Thế nào là Tập đoàn kinh tế ? Trước khi quyết định chuyển đổi một tổ chức kinh tế đang hoạt động từ nhiều năm thành Tập đoàn kinh tế theo mô hình Cty mẹ – Cty con, có hàng loạt khái niệm cơ bản cần được nghiên cứu, trao đổi và thống nhất về cách hiểu. Đó không phải là “kinh viện chủ nghĩa” mà là sự cần thiết, khách quan. Bởi lẽ, nếu chưa có một cách hiểu thống nhất về những khái niệm cơ bản, chắc chắn sẽ dẫn đến những chủ trương, giải pháp, biện pháp xử lý khác nhau về cùng một vấn đề. Và, như vậy, mục tiêu cần đạt được không rõ và tất yếu là cuộc cải cách không thành công. Câu hỏi trước hết và quan trọng nhất cần giải đáp là: Thế nào là tập đoàn kinh tế?
Đã có khá nhiều ý kiến tranh luận xung quanh thuật ngữ “Tập đoàn kinh tế”. Ý kiến thứ nhất cho rằng, Tập đoàn kinh tế là một khái niệm sử dụng để chỉ rõ mục tiêu chính của tập đoàn đó là hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, phân biệt với các tập đoàn quân sự, chính trị. Chẳng hạn ASEAN, EU… có thể coi là tập đoàn kinh tế; NATO… là Tập đoàn quân sự. Vì vậy, nếu gọi các tập đoàn đã hình thành hiện nay như Than khoáng sản; Dầu khí; Điện lực, Viễn thông… của Việt Nam và Samsung, IBM, Mitsubitsi… trên thế giới là tập đoàn kinh tế là quá rộng về phạm vi. Chỉ nên gọi đó là những Tập đoàn kinh doanh. Song, một ý kiến khác lại cho rằng, ngay khi sử dụng thuật ngữ “Tập đoàn kinh doanh” cũng vẫn là quá rộng và không định vị được phạm vi của tập đoàn vì nếu như vậy, tất cả những tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định đều là thành viên của tập đoàn đó. Căn cứ vào các đơn vị thành viên của một tập đoàn, ý kiến này cho rằng, nên gọi đó là tập đoàn DN. Bởi lẽ, tham gia tập đoàn là các DN. Tuy nhiên, ý kiến này lại gặp vướng mắc không thể giải thích được là trong không ít tập đoàn lớn ở các nước phát triển hiện nay đã có nhiều Viện Nghiên cứu khoa học, các tòa soạn báo, tạp chí – không phải là những DN – tham gia. Cho đến nay, sử dụng thuật ngữ nào cho tập đoàn đã không còn là vấn đề tranh cãi ở các nước phát triển. Để chỉ một tập đoàn trên thế giới đã xuất hiện rất nhiều hình thức với những tên gọi cụ thể khác nhau. Trong giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản có Cartel, Syndicate, Trut, Consrtium, Concent… Sau đó, hàng loạt tên gọi khác đã xuất hiện như: Conglommerate, International Corporation, Multinational (MNC), Giants, Business group, Economic group, Enterprise group, Zaibatsu, Chaebol, Blu Chip, Group of companies… Ấn Độ dùng thuật ngữ business houses, tại Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai gọi là zaibatsu và sau chiến tranh gọi là keiretsu, Hàn Quốc dùng từ chaebol, Trung Quốc dùng thuật ngữ Tập đoàn DN. Ở nước ta, các hình thức tổ chức như Liên hiệp các xí nghiệp trước đây và TCty hiện nay cũng được một số tài liệu coi là các tập đoàn kinh tế xét về mặt hình thức. Đến nay, chúng ta đã có các tổ chức với tên gọi đích danh là tập đoàn như: Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông, Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam… Các văn bản pháp quy của Nhà nước đã gọi những tập đoàn được thành lập vừa qua là tập đoàn kinh tế. Tên gọi tập đoàn kinh tế đã được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp. Hơn nữa, tên gọi là quan trọng nhưng bản chất của nó có vai trò quan trọng hơn. Vì vậy, gọi những tập đoàn đã, đang và sẽ ra đời ở nước ta là tập đoàn kinh tế cũng không sai. Vậy, thế nào là tập đoàn kinh tế? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau cho khái niệm này. Theo Từ điển thương mại Anh – Pháp – Việt, khái niệm “group – tập đoàn” có thể hiểu như sau: “Một nhóm là một tập đoàn kinh tế và tài chính gồm một Cty mẹ và các Cty khác mà nó kiểm soát hay trong đó nó có tham gia. Mỗi Cty bản thân nó cũng có thể kiểm soát các Cty khác hay tham gia các tổ hợp khác”. Theo GS.TS Bùi Xuân Phong – Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông: “Tập đoàn kinh tế là một cơ cấu sở hữu, tổ chức và kinh doanh đa dạng, có quy mô lớn. Nó vừa có chức năng SXKD, vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng cường khả năng tích tụ, tập trung cao nhất các nguồn lực ban đầu (vốn, sức lao động, công nghệ…) để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và tối đa hóa lợi nhuận”. Điều 149 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Tập đoàn kinh tế là nhóm Cty có quy mô lớn. Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế”. Khoản 1 Điều 26 Nghị định 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “Tập đoàn kinh tế bao gồm nhóm các Cty có tư cách pháp nhân độc lập, được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp DN trở lên dưới hình thức Cty mẹ – Cty con”. Tuy nhiên, khái niệm trên cũng không hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, không phải bất kỳ tập đoàn kinh tế nào cũng phải “có từ hai cấp DN trở lên dưới hình thức Cty mẹ – Cty con”. Vì vậy, theo chúng tôi, “Tập đoàn kinh tế là một tập hợp gồm hai hay nhiều DN độc lập, hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau, trong phạm vi một hay nhiều quốc gia, liên kết với nhau theo những nguyên tắc và phương thức nhất định, nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh”. Như vậy, để hình thành tập đoàn, nhất thiết phải có từ hai DN độc lập trở lên và có quan hệ gắn bó lâu dài với nhau. Đó là điều cần nhấn mạnh để phân biệt với một số trường hợp đã xuất hiện với những tên gọi Cty CP tập đoàn X; Cty TNHH tập đoàn Y… Đó chỉ là một DN, không thể là một tập đoàn mặc dù tên gọi có thành tố “Tập đoàn”. Kỳ sau: Vì sao các Tập đoàn kinh tế được hình thành? Luật gia Vũ Xuân Tiền |
Hình thành tập đoàn kinh tế theo mô hình Cty mẹ – Cty con: Những vấn đề cần nghiên cứu, trao đổi (bài 1)
196


