Trang chủ » Công bố kết quả sơ bộ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009

Công bố kết quả sơ bộ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009

by Kien Truc - Kientruc.vn












Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương vừa tổ chức Hội nghị truyền hình trực tuyến công bố kết quả sơ bộ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. Ghi nhận nỗ lực của đội ngũ tham gia cuộc Tổng điều tra, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng đánh giá cao kết quả đã thu được và cho đây là bước quan trọng đảm bảo sự thành công của công tác điều tra. Theo Phó Thủ tướng, kết quả Tổng điều tra cho thấy, công tác  kế hoạch hoá gia đình  trong 10 năm qua của Việt Nam đã được triển khai khá thành công. Việc công bố sơ bộ 5 chỉ tiêu về dân số cho chúng ta đánh giá được kết quả phát triển kinh tế-xã hội 10 năm qua và có cơ sở để hoạch định kế hoạch kinh tế – xã hội 10 năm tới một cách chính xác, khoa học.



Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng dự hội nghị




Theo kết quả điều tra, sau 10 năm (kể từ năm 1999), dân số nước ta tăng thêm 9,47 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 947.000 người và đây là thời kỳ có tỷ lệ tăng dân số thấp nhất trong vòng 50 năm qua. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm trong thời kỳ giữa hai cuộc tổng điều tra năm 1999 và 2009 là 1,2%/năm. Tổng số dân nước ta vào 0h ngày 1/4/2009 là 85.789.573 người và là nước đông dân thứ 3 ở Đông Nam Á (sau Indonesia, Philippine) và thứ 13 trong số những nước đông dân nhất thế giới.









Dân số Việt Nam phân bố không đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Hai vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là châu thổ của hai con sông lớn, nơi có đất đai màu mỡ, điều kiện canh tác nông nghiệp thuận lợi nên có 43% dân số tập trung sinh sống. Ngược lại, các vùng trung du, miền núi phía Bắc và Tây Nguyên (là những vùng núi cao điều kiện sống khó khăn và cũng là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số), chỉ chiếm gần 19% dân số cả nước. Số liệu còn cho thấy, sau 10 năm tỷ trọng dân số của hai vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên tăng, của 4 vùng còn lại giảm. Các vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có tỷ lệ tăng dân số bình quân thấp nhất 0,4%/năm, tiếp đến là đồng bằng sông Cửu Long 0,6%/năm. Vùng Đông Nam Bộ là vùng có tỷ lệ dân số tăng cao nhất 3,2%/năm.



Trong tổng dân số của cả nước, thì 25.374.262 người cư trú ở khu vực thành thị và 60.415.311 người cư trú tại khu vực nông thôn. Tỷ lệ dân số sống ở thành thị đã tăng từ 23,5% vào năm 1999 lên 29,6%  hiện nay. Đông Nam Bộ là vùng có mức độ đô thị hoá cao nhất và tốc độ đô thị hoá khá nhanh, dân số thành thị chiếm 57,1% (năm 1999 là 55,1%) là do vùng này có ba trung tâm đô thị lớn là Tp.Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu. Đồng bằng sông Hồng có mức đô thị hoá cũng tương đối cao với 29,2% dân số thành thị (năm 1999 là 21,1%), vùng này cũng có ba trung tâm đô thị lớn là Hà Nội, Quảng Ninh và Hải Phòng.



Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của các tỉnh có sự khác biệt khá lớn. Một số tỉnh, thành phố có tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm giữa hai cuộc Tổng điều tra 1999 và 2009 gấp hơn 2 lần mức chung của cả nước. Đó là Bình Dương, (7,3%), Tp.Hồ Chí Minh (3,5%), Kon Tum (3,1%), Bình Phước (2,9%), Gia Lai (2,7%), Đà Nẵng (2,6%). Mặt khác, kết quả điều tra cũng cho thấy, sau 10 năm, tỷ số giới tính đã tiếp tục tăng lên và đạt mức 98,1 nam/100 nữ, cao hơn so với cách đây 10 năm (96,7 nam/100 nữ).



Theo ông Nguyễn Đức Hòa, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, Phó Trưởng ban chỉ đạo tổng điều tra thì, kết quả sơ bộ bước đầu về cuộc Tổng điều tra là cơ sở để các ngành, các địa phương sử dụng trong hoạch định chính sách kinh tế-xã hội của địa phương, đơn vị mình.







5 tỉnh, thành phố có dân số đông nhất cả nước là: TP. Hồ Chí Minh có 7.123.340 người; Hà Nội 6.448.837, Thanh Hoá: 3.400.239; Nghệ An: 2.913.055 và Đồng Nai có 2.483.211 người.

You may also like