Trang chủ » Đô thị Việt Nam: Mười năm phát triển và những giải pháp cho thời kỳ mới

Đô thị Việt Nam: Mười năm phát triển và những giải pháp cho thời kỳ mới

bởi Kien Truc - Kientruc.vn
0 comments

Nhìn lại chặng đường mười năm phát triển

Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Định hướng phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020, trong đó vai trò của các đô thị được xác định là những động lực phát triển chính trong công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu phát triển đất nước cơ bản thành nước công nghiệp vào năm 2020.

Nhìn lại chặng đường 10 năm đã qua, với sự nỗ lực vận động của toàn xã hội, chúng ta có thể tự hào với những thành tựu quan trọng đã đạt được của của công tác phát triển đô thị toàn quốc. Hệ thống đô thị quốc gia đã có sự chuyển biến tích cực cả về lượng cũng như về chất. Mạng lưới đô thị quốc gia đã và đang được phát triển, mở rộng từ 629 đô thị năm 1999 đến nay đã tăng lên 754 đô thị. Về dân cư đô thị, tỷ lệ đô thị hoá đã tăng từ 20,7% năm 1999 đến nay đạt xấp xỉ 30% nếu tính dân số nội thị. trong đó, có 02 đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh, đô thị loại I tăng thêm 5 đô thị, trong khi đó loại V tăng thêm 99 đô thị. Điều này đã chứng tỏ mức độ đô thị hoá đã phát triển mạnh ở khu vực các đô thị nhỏ, lan toả trên diện rộng và phân bố đồng đều hơn trên phạm vi cả nước.

Tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị trung bình đạt từ 12-15%, cao gấp 1,5-2 lần so với mặt bằng chung trong cả nước. Năm 2007-2009 đạt khoảng từ 8 – 10%[1]. Hiện nay nguồn thu đô thị, nhất là của các thành phố lớn chiếm tỷ lệ 70% trong cơ cấu GDp cả nước.  Tại một số đô thị lớn, GDp bình quân đầu người đạt trên 1500 USD như Hà Nội khoảng 1500 USD/năm, Nha trang 1779 USD/năm… Sự phát triển kinh tế đô thị đã và đang tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển chung của xã hội.

Sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã đem lại những nguồn lực quan trọng cho việc xây dựng và cải tạo chỉnh trang diện mạo của các đô thị. Kiến trúc và cảnh quan đô thị đã được các chính quyền đô thị quan tâm đầu tư phát triển với sự xuất hiện ngày càng nhiều các quần thể kiến trúc, mảng đô thị hiện đại, ứng dụng công nghệ thiết kế, xây dựng tiên tiến của thế giới. Tại nhiều đô thị đã và đang xuất hiện các công trình kiến trúc cao tầng là những điểm nhấn kiến trúc đô thị có chất lượng cao. Đi đôi với việc đầu tư xây dựng các khu đô thị mới hiện đại, đồng bộ thì công tác cải tạo, chỉnh trang đô thị và bảo tồn các giá trị di sản kiến trúc đô thị đã được coi trọng, góp phần duy trì và tạo dựng bản sắc của từng đô thị.

Chất lượng cuộc sống người dân đô thị đang từng bước được cải thiện thông qua sự đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng tại các đô thị. Năm 1999, diện tích nhà ở bình quân quân đầu người đạt 6m2 đến nay đã tăng gấp đôi đạt 12 m2. Mô hình đầu tư phát triển các khu đô thị mới đồng bộ đã được nghiên cứu nhân rộng tại nhiều địa phương trong cả nước, sử dụng có hiệu quả quỹ đất dành cho phát triển đô thị, đồng thời từng bước giải quyết nhu cầu rất lớn của xã hội về nhà ở. Hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội đô thị như hệ thống giao thông, cấp nước, thoát nước, chiếu sáng, cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn, công trình phúc lợi công cộng và nhà ở của các đô thị được đầu tư xây dựng, cải tạo và phát triển khá nhanh, tạo nên bộ khung cơ bản để các đô thị phát triển. Về cấp nước sạch, thời điểm năm 1999 Việt Nam vẫn còn hơn 70% dân đô thị sử dụng nước không đảm bảo vệ sinh, đến nay bình quân trên cả nước 73% dân cư đô thị đã được cấp nước sạch. Chất lượng phục của giao thông công cộng tại các đô thị, các vùng và trên cả nước ngày càng tốt hơn. Hiện nay nhiều địa phương đang tập trung nguồn vốn ODA để đầu tư xây dựng và phát triển giao thông công cộng đô thị như dự án đường sắt trên cao tại Hà Nội, dự án tầu điện ngầm tại thành phố Hồ Chí Minh, các tuyến giao thông huyết mạch, tuyến vành đai các đô thị lớn, cầu qua sông v.v. Vấn đề cải thiện điều kiện môi trường đô thị cũng đã được chính quyền đô thị quan tâm. Một số đô thị đã có nhà máy hoặc trạm xử lý nước thải được đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động. Tỉ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt bình quân cả nước đạt khoảng 80%. Chúng ta đã có 3 công nghệ trong nước xử lý chất thải rắn sinh hoạt đã được Bộ Xây dựng cấp giấy chứng nhận: SERApHINE, ANSINH-ASC, MBT-CD. Cấp điện và chiếu sáng đô thị được cải thiện rõ rệt. 90% các tuyến đường trục chính cấp đô thị từ các đô thị loại 3 trở lên được chiếu sáng. Dịch vụ cung cấp thông tin liên lạc phát triển nhanh chóng phục vụ tích cực cho các yêu cầu đặt ra của sự phát triển kinh tế xã hội.

trong mười năm qua, đáp ứng các yêu cầu của  thực tiễn phát triển xã hội, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Xây dựng và các Bộ ngành đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực xây dựng và phát triển đô thị, trong đó nhiều văn bản Luật lần đầu tiên đã được nghiên cứu, xây dựng và ban hành như Luật Xây dựng năm 2003, Luật Nhà ở năm 2005, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006 và đặc biệt là Luật Quy hoạch đô thị vừa được Quốc hội thông qua tháng 6 năm 2009. Các văn bản Luật và hệ thống văn bản dưới Luật đã thường xuyên được rà soát, điều chỉnh để từng bước đi vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thông thoáng, hướng tới sự phát triển bền vững hệ thống đô thị Việt Nam.

Những vấn đề tồn tại

Bên cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ của công tác phát triển đô thị trong những năm vừa qua, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận còn nhiều việc cần phải làm. Công tác lập quy hoạch xây dựng đô thị nhìn chung đã được quan tâm triển khai. trong cả nước đã có 9 đồ án quy hoạch vùng được Chính phủ phê duyệt, 59/63 tỉnh, thành phố có quy hoạch vùng tỉnh, phục vụ việc quản lý sự phát triển mạng lưới đô thị của các địa phương. Tất cả các đô thị từ loại IV trở lên đều đã có quy hoạch chung xây dựng được phê duyệt. Tuy nhiên, tỷ lệ phủ kín quy hoạch chi tiết tại các đô thị của cả nước còn thấp. Tỷ lệ trung bình trong cả nước hiện nay là khoảng 45%, không đồng đều giữa các đô thị và vùng miền. Điều đó có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư, bố trí nguồn lực phát triển cũng như công tác quản lý xây dựng đô thị theo quy hoạch. 

Mặt khác, tốc độ tăng trưởng và đô thị hoá cao tại phần lớn các đô thị đã dẫn đến sự mất cân đối trong khả năng đáp ứng của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị. Mặc dù việc cấp nước sạch đã được cải thiện đáng kể nhưng tỷ lệ thất thoát thất thu nước bình quân vẫn cao 20 – 30%, vừa gây thất thoát nguồn tài nguyên quan trọng vừa giảm nguồn thu cho ngân sách. Tình trạng úng ngập, tắc nghẽn giao thông tại đô thị còn diễn ra phổ biến. Các hồ, kênh, mương, sông ngòi trong đô thị với vai trò điều hoà và thoát nước mưa đô thị vào mùa mưa lũ ít được quan tâm bảo vệ. Hiện tượng ô nhiễm môi trường vẫn chưa có lời giải hữu hiệu. Nhiều đô thị vẫn còn đang lúng túng trong việc tìm ra nguồn lực đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng thoát nước, xử lý chất thải rắn, giao thông đô thị…

trong những năm qua, các chính quyền đô thị đã rất quan tâm đầu tư để xây dựng đội ngũ, liên tục đào tạo, bồi dưỡng trình độ cán bộ làm công tác quản lý đô thị bằng nguồn kinh phí ngân sách Nhà nước cũng như sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức quốc tế. Mô hình hợp tác với các thành phố trên thế giới đã đem lại nhiều kinh nghiệm bổ ích trong thực tiễn quản lý. Mặc dù vậy, những cán bộ đã qua đào tạo chuyên môn lĩnh vực xây dựng và phát triển đô thị mới chỉ chiếm 9 – 11% ở cấp xã, phường, chưa đáp ứng được mức độ đòi hỏi của khối lượng công việc. Mặt khác, do lĩnh vực quản lý đô thị và kinh tế đô thị còn là vấn đề khá mới mẻ, chúng ta vừa làm vừa rút kinh nghiệm để phù hợp với đặc thù của nước ta, do đó ở nhiều nơi, vai trò của chính quyền đô thị trong việc điều phối các đối tượng và điều tiết nguồn lực tham gia trong quá trình phát triển đô thị còn có nhiều hạn chế, dẫn đến thực tế vẫn còn phổ biến tình trạng thiếu thông tin, chồng chéo giữa các lĩnh vực.

Có thể thấy rằng, các bất cập tồn tại trong nhiều cấp độ, thuộc nhiều lĩnh vực từ việc xây dựng phát triển đô thị theo quy hoạch cho đến việc quản lý các quá trình phát triển trong đời sống hàng ngày của đô thị. Thực tế này có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, liên quan đến mọi đối tượng tham gia trong đô thị từ cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền đô thị cho đến các doanh nghiệp, nhà đầu tư cũng như chính bản thân người dân đô thị.

phát triển đô thị Việt Nam bền vững

phát huy giá trị các bài học kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn xây dựng phát triển đô thị ở nước ta cũng như nhiều nước tiên tiến trên thế giới, Định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 07/4/2009 và Chương trình nâng cấp đô thị quốc gia giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2020 (Quyết định số 758/QĐ-TTg ngày 08/6/2009) đã đề ra các định hướng, giải pháp tổng thể, toàn diện phát triển hệ thống đô thị quốc gia, xác định các giai đoạn phát triển, mục tiêu cụ thể và lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn.

Theo đó, để quá trình phát triển của các đô thị trong cả nước đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững, chính quyền đô thị các cấp cần đặc biệt lưu ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, không ngừng đẩy mạnh vai trò công tác lập quy hoạch và nâng cao chất lượng quy hoạch. Công tác quy hoạch phải được ưu tiên đầu tư đi trước để định hướng và đảm bảo tính đồng bộ trong quá trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo chỉnh trang đô thị. Đồng thời với việc áp dụng các tiến bộ trong phát triển đô thị, quy hoạch không những phải đáp ứng yêu cầu cao về tạo dựng chất lượng không gian đô thị mà còn phải đáp ứng tốt yêu cầu về dự báo gắn sát với thực tiễn và xu hướng phát triển của xã hội, thực sự trở thành nền tảng cho việc tạo dựng nguồn lực phát triển cho đô thị.

Thứ hai, tạo dựng nguồn lực phát triển đô thị từ chính nội lực của đô thị. Song song với các nguồn hỗ trợ phát triển mà đô thị có được, cần đặc biệt chú trọng việc đổi mới cơ chế, chính sách phát triển đô thị trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý quy hoạch, quản lý nhà, đất; quản lý đầu tư xây dựng, quản lý khai thác sử dụng công trình đô thị. Thông qua các giải pháp về quy hoạch đô thị kết hợp với các chính sách phù hợp để huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế trong xã hội, thực hiện chủ trương xã hội hoá đầu tư cho phát triển đô thị đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, đẩy nhanh tiến trình nâng cấp chất lượng đô thị hoá.

Thứ ba, cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới tư duy trong quản lý nhà nước về đô thị đi đôi với việc nâng cao phẩm chất, năng lực và trình độ cán bộ quản lý đô thị các cấp. Tăng cường phân cấp quản lý đô thị; nâng cao quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền đô thị các cấp, tổ chức bộ máy tinh giản gọn nhẹ nâng cao tính hiệu quả hiệu lực quản lý đồng thời chú trọng hơn nữa công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng nhiều hình thức phù hợp với thực tế trình độ, kinh nghiệm và kiến thức.

Thứ tư, cần chú trọng phát huy vai trò và trách nhiệm làm chủ của cộng đồng, của người dân đô thị. Việc xây dựng và duy trì chất lượng đô thị phụ thuộc một phần quan trọng trong ý thức của người dân thực hiện nếp sống văn minh đô thị. Do đó, cần có giải pháp tích cực để cộng đồng nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm tham gia xây dựng và quản lý đô thị được cụ thể hoá trong ngay từ trong cuộc sống hàng ngày của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng của đô thị./.

[1] Năm 2008 các thành phố lớn như thành phố HCM đạt hơn 10%, Hà Nội 10,58%, Đà Nẵng 11%, Hải phòng 13,02%…

Nguyễn Hồng Quân

Uỷ viên BCH trung ương Đảng

Bộ trưởng Bộ Xây dựng

Có thể bạn cũng thích

Về chúng tôi

Kientruc.vn là trang thông tin dành riêng cho những ai đam mê kiến trúc và xây dựng, nơi hội tụ của những ý tưởng sáng tạo, giải pháp đột phá, và niềm đam mê cháy bỏng với nghề. Hơn cả một nền tảng trực tuyến, chúng tôi mong muốn trở thành người bạn đồng hành, kết nối kiến trúc sư, kỹ sư, chủ đầu tư, giữ lửa đam mê và chung tay tạo nên những công trình đẹp làm rạng danh Việt Nam.

@2024 – All Right Reserved kientruc.vn.