Trang chủ » Đồng thuận bất ngờ G20 và địa vị bị thách thức của đồng USD

Đồng thuận bất ngờ G20 và địa vị bị thách thức của đồng USD

by Kien Truc - Kientruc.vn





Mặc dù ý tưởng cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế, thay đồng USD bằng một đồng tiền dự trữ khác được nhiều nước tán đồng trước giờ khai mạc hội nghị G20, nhưng rốt cuộc, vấn đề này hầu như không được nêu ra hoặc bàn thảo tại hội nghị. Vì sao vậy?




Trước thềm hội nghị G20 Luân Đôn, ngày 23-3, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Trung Quốc Chu Tiểu Xuyên đề xuất ý tưởng cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế, thay đồng USD bằng một đồng tiền dự trữ khác. Quan điểm này lập tức được cả thế giới quan tâm bàn thảo, xem ra có vẻ nhiều ý kiến tán đồng từ Nga và một số nước như Ấn Độ, Brazil, Venezuela.




Dư luận nói nhiều tới khả năng “đồng tiền” SDR (Special Drawing Right – Quyền Rút tiền đặc biệt) sẽ thế chân đồng USD. Người Trung Quốc hy vọng hội nghị G20 Luân Đôn có thể là nơi thực hiện ý định này và Trung Quốc sẽ có tiếng nói lớn hơn trong các cơ quan tài chính quốc tế, xứng đáng với vị thế nền kinh tế thứ ba thế giới và túi tiền rủng rỉnh mấy nghìn tỷ USD dự trữ ngoại tệ của họ.





Giờ đây, khi hội nghị G20 đã kết thúc, người ta thấy vấn đề đồng USD hầu như không được nêu ra hoặc bàn thảo trong hội nghị và do đó vị thế của đồng USD chưa có gì thay đổi. Dưới đây là một số nguyên nhân được giới phân tích chỉ ra:





Quan hệ giữa khủng hoảng tài chính với hệ thống tiền tệ quốc tế





Nhìn lại lịch sử kinh tế tài chính thế giới, có thể thấy dường như mỗi cuộc khủng hoảng tài chính đều tác động mạnh đến hệ thống tiền tệ quốc tế đương thời. Cuộc khủng hoảng đồng Bảng Anh thời gian 1967-1968 dẫn tới kết quả đồng tiền của Vương quốc Anh từng sánh vai với đồng USD phải rút ra khỏi vũ đài lịch sử, hệ thống tiền tệ quốc tế cũng thoát ra khỏi tình trạng “nhiều trung tâm”: vàng – USD – Bảng Anh, từ đó đồng USD trở thành độc tôn. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu những năm 1970 làm cho đồng USD không còn ràng buộc với vàng nữa, từ đó hệ thống Bretton Woods** tan rã.





Cuộc khủng hoảng tài chính lần này cũng tác động mạnh tới vị thế đồng USD. Thời gian gần đây có nhiều tin tức đồng USD mất giá, làm tăng nỗi lo của những nước mới nổi lên có nhiều ngoại tệ dự trữ dùng đồng USD.





Để đối phó với nguy cơ đồng USD suy yếu, Mỹ đã áp dụng chính sách tiền tệ “nới lỏng có định lượng”, dùng biện pháp mua công trái trên thị trường để tăng cường tính lưu chuyển của thị trường tiền tệ, nhờ đó tạo khả năng ổn định thị trường tiền tệ toàn cầu. Theo nhận định của một số chuyên gia thì Mỹ đang bắt đầu ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính.





Chính sách nới lỏng tài chính sẽ làm kinh tế ổn định dần, nhưng sau đó thì do đồng USD được mau chóng tung vào đầu tư nên khó tránh khỏi khả năng xảy ra lạm phát có tính toàn cầu. Đây là sự bất lợi đối với các nước có nhiều ngoại tệ dự trữ, vì nó làm giảm giá trị số dự trữ này. Nói cách khác, chính sách nới lỏng tài chính của phương Tây sẽ gây thiệt hại cho các nước công nghiệp hóa mới nổi lên. Vì thế các nước này muốn thay đổi hệ thống tiền tệ quốc tế.





Nhưng tác động của cuộc khủng hoảng tài chính lần này chưa đủ độ để thay đổi địa vị bá chủ của đồng USD. Cho dù chính sách nới lỏng có định lượng sẽ ảnh hưởng tới xu thế ngắn hạn của đồng USD, nhưng trong một thời gian tương đối lâu nữa, hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD là nòng cốt rất khó có thể bị suy suyển.





Trong buổi tọa đàm trên truyền hình CCTV4 tối 3-4 bàn về kết quả khả quan của hội nghị G20, một chuyên gia Trung Quốc nói nếu dùng SDR thay cho USD thì ai sẽ in đồng tiền này? Quả thật hiện nay chưa tìm được một hoặc nhiều đồng tiền nào có thể sánh vai với đồng USD. Mặt khác nhiều nền kinh tế khác đang chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay chẳng kém gì nền kinh tế Mỹ. Cho nên trong tương lai đồng USD vẫn còn mạnh hơn các đồng tiền khác.





G20 London chưa giải quyết vấn đề cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế





Đề xuất cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế của ông Chu Tiểu Xuyên tuy có gây ra phản ứng mạnh trên thế giới nhưng lại không mấy tác động đến các đại biểu dự G20 Luân Đôn. Đó là do các nước dự họp chịu tác động khác nhau của khủng hoảng, do đó nguyện vọng của họ đối với G20 cũng khác nhau, khó có thể đạt được sự đồng thuận để tiến tới một thỏa ước cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay.





Đầu tiên là sự thay đổi thái độ của EU. Trong cuộc họp G20 cuối 2008 tại Washington, Pháp (nước chủ tịch luân phiên EU) đề xuất phải thay đổi địa vị của đồng USD, vì lúc ấy nền kinh tế EU chưa thể hiện bị tổn thương mạnh từ khủng hoảng (mà Mỹ tổn thương nặng), cho nên EU muốn nhân dịp đó làm suy yếu địa vị USD, tăng cường ảnh hưởng của đồng Euro.





Giờ đây, sau khi áp dụng chính sách “nới lỏng có định lượng”, Mỹ đang thoát ra khỏi khủng hoảng, còn EU chỉ dựa vào giảm lãi suất thì chắc chắn không thể giải quyết được vấn đề nợ xấu trong các thiết chế tài chính. Đồng thời các nước Đông Âu đang lún sâu vào khủng hoảng nợ nước ngoài, sẽ có ảnh hưởng rất khó đánh giá đối với ngành ngân hàng, chẳng nước nào dám mua các trái khoán của Đông Âu. Cho nên các nước EU đến với G20 Luân Đôn với hy vọng được cộng đồng quốc tế giúp hệ thống ngân hàng của họ và giúp Đông Âu thoát ra khỏi tình trạng khó khăn hiện nay.





Trước G20 Luân Đôn, tưởng chừng mâu thuẫn giữa Mỹ với EU sẽ căng lắm, ai ngờ tới Luân Đôn họ lại bắt tay nhau cười xòa. Obama không còn nói bơm tiền là biện pháp duy nhất nữa mà nói cũng coi trọng việc giám sát quản lý các thiết chế tài chính, như yêu cầu của EU. Song rốt cuộc G20 lại ra sức bơm tiền cho IMF cứu khủng hoảng. Có thể thấy chiến lược của Mỹ rất khôn ngoan và đã chiếm thế thượng phong.





Thứ hai, Mỹ đã áp dụng các biện pháp “nới lỏng có định lượng” và bóc tách “tài sản xấu” để giải quyết khủng hoảng tài chính hiện nay. Có thể dự đoán cuộc khủng hoảng này sẽ dần dần ra khỏi nước Mỹ và nước này sẽ tập trung công sức vào việc phục hồi nền kinh tế thực thể của mình.





Lần này Mỹ đến G20 London với mục tiêu chính là tìm kiếm niềm tin của Trung Quốc và các nước Đông Á đối với công trái Mỹ; vì vậy trong hội nghị Mỹ tỏ thái độ sẽ tăng cường giám sát quản lý các cơ quan tài chính nước mình. Chính phủ Mỹ vừa áp dụng các biện pháp kiên quyết đối với tiền thưởng của các CEO hoặc đối với GM, cho thấy sự giám sát đó đang được thực hiện tốt.





Thứ ba, có thể EU cũng sẽ áp dụng chính sách “nới lỏng có định lượng” để cứu nền kinh tế của mình. Sự nới lỏng tài chính toàn cầu sẽ làm giảm giá trị các khoản ngoại tệ dự trữ khổng lồ của Trung Quốc và các nước mới nổi lên, do đó họ bức thiết muốn thay đổi tình trạng ấy.





Thủ tướng Ôn Gia Bảo công khai nói lên sự lo lắng đối với tài sản của Trung Quốc ở Mỹ (tức số công trái Mỹ mà Trung Quốc đã mua); ông Chu Tiểu Xuyên thắc mắc về vai trò độc tôn của đồng USD trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Nhưng nan đề Triffin * cho tới nay vẫn khó giải, bởi lẽ, một mặt Mỹ và EU – hai nền kinh tế có ảnh hưởng toàn cầu lớn nhất hiện nay – đều chưa có nhu cầu thay đổi hệ thống tiền tệ mà họ đang hưởng lợi; mặt khác cho dù Trung Quốc có thể liên kết các nước mới nổi lên khác đưa ra hệ thống tiền tệ SDR, nhưng trong hệ thống SDR ấy mối tương quan giữa các đồng tiền ra sao và sự thao tác hệ thống ấy như thế nào đều phải được sự đồng thuận của các nước phát triển. Một thí dụ: trong cuộc gặp Obama-Taso tại Washington, Nhật Bản cam kết duy trì hệ thống tiền tệ quốc tế lấy đồng USD làm đồng tiền dự trữ. Tóm lại, tuy sức mạnh kinh tế của một nước quyết định quyền phát ngôn (quyền ăn nói) của nước đó trong hệ thống tiền tệ quốc tế; song rốt cuộc vì các nước phát triển không tích cực hưởng ứng nên phương án của Trung Quốc muốn cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế cũng bị phá sản.





Cho dù do Mỹ áp dụng các biện pháp cứu thị trường tài chính của họ nên đã xuất hiện khủng hoảng tín nhiệm của đồng USD, song cũng nên thấy là mức độ khó khăn mà hệ thống ngân hàng châu Âu và Nhật Bản cũng chẳng kém Mỹ. Trên báo Trung Quốc đã xuất hiện ý kiến chớ nên khuếch đại nguy cơ đồng USD mất giá.





Tóm lại chỉ có thể hy vọng vào tương lai, vào những thay đổi lớn khác khi một quốc gia nào đó – có lẽ là Trung Quốc – thay thế được vai trò dẫn đầu thế giới của nước Mỹ. Nhưng niềm hy vọng ấy có lẽ còn lâu mới thành hiện thực, vì còn nhiều nhân tố quan trọng khác chứ không chỉ GDP là nhân tố quyết định vai trò dẫn đầu này.





Quan sát vai trò của Mỹ và Trung Quốc trong hội nghị G20 có thể thấy được nhiều điều lý thú. Thành công bất ngờ của G20 Luân Đôn cho thấy cộng đồng quốc tế có thể đạt được đồng thuận trong việc tập trung đối phó với khủng hoảng tài chính trước mắt đã, còn các cải cách khác phải từ từ, bởi lẽ rất khó đạt được sự đồng thuận trên diện rộng. Những cải cách lớn có khi chỉ gây ra sự xáo trộn không thể lường được hậu quả, vì lĩnh vực tài chính vô cùng phức tạp; đề xuất một ý tưởng thì dễ nhưng thực hiện nó thì vô cùng khó khăn. Thực tế diễn biến của hệ thống Bretton Woods cho thấy điều đó.





————————-





* Nan đề Triffin tức Triffin’s Dilemma , do Giáo sư Robert Triffin (1911-1993, người Mỹ gốc Bỉ) ở ĐH Yale đề xuất, tạm hiểu đơn giản là sự nan giải giữa niềm tin với khả năng thanh khoản. Nó nói lên mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết được trong hệ thống Bretton Woods và rốt cuộc hệ thống này đã tan rã vì sự nan giải đó.





** Dưới hệ thống Bretton Woods, các ngân hàng trung ương của các nước công nghiệp, trừ Mỹ phải có nhiệm vụ duy trì tỷ giá hối đoái cố định giữa đồng tiền của họ với đồng USD. Họ làm điều này bằng việc can thiệp vào các thị trường ngoại hối. Nếu đồng tiền của một nước quá cao so với đồng USD thì ngân hàng trung ương của nước đó cần phải bán tiền của mình để đổi lấy USD, đẩy giá trị của đồng tiền đó xuống. Ngược lại, nếu giá trị đồng tiền của một nước quá thấp thì nước đó cần phải mua vào tiền của chính mình, do vậy sẽ đẩy giá của đồng tiền đó lên.





Hệ thống Bretton Woods đã kéo dài cho tới năm 1971. Tại thời điểm đó, lạm phát trong nước Mỹ và thâm hụt thương mại của Mỹ gia tăng đã làm suy giảm giá trị đồng USD. Người Mỹ cố thuyết phục Đức và Nhật Bản, là hai nước đều có cán cân thanh toán thuận lợi, tăng giá trị các đồng tiền của họ. Nhưng các quốc gia này miễn cưỡng chấp nhận bước đi này, vì việc tăng giá trị đồng tiền của họ sẽ làm tăng giá hàng hóa của các nước đó và gây phương hại đến xuất khẩu của họ. Cuối cùng, Mỹ đã bỏ giá trị cố định của đồng USD và cho phép nó được “thả nổi” – tức là, cho dao động đối với các đồng tiền khác. Đồng USD ngay lập tức hạ giá. Các nhà lãnh đạo thế giới tìm cách khôi phục lại hệ thống Bretton Woods bằng một hiệp định có tên gọi Hiệp định Smithson năm 1971, nhưng cố gắng này đã thất bại. Năm 1973, Mỹ và các quốc gia khác đã chấp thuận cho phép tỷ giá hối đoái thả nổi. (Theo http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_useconomy_x.html)





Nguyên Hải (ND) tổng hợp
từ nguồn các mạng

You may also like