Bài 7: Những thỏa thuận cần thiết trong tập đoàn kinh tế Tập đoàn kinh tế (TĐKT) không phải là một DN, Nhà nước không ban hành những văn bản quy phạm pháp luật chi tiết về sự hình thành, cơ cấu tổ chức và các mối quan hệ trong TĐKT. Do đó, những thỏa thuận nội bộ giữa các Cty trong tập đoàn có vị trí đặc biệt quan trọng. Khoản 2, Điều 26, Nghị định 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “TĐKT không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật DN. Việc tổ chức hoạt động của TĐ do các Cty lập thành TĐ tự thỏa thuận quyết định”. Với quy định nêu trên, các TĐKT có quyền và cần thiết phải hình thành những thỏa thuận nội bộ của mình. Những thỏa thuận này có thể được gọi là Thỏa thuận hình thành TĐ; Quy ước hoặc Quy chế nội bộ về hình thành, tổ chức và quan hệ điều hành TĐ. Nội dung của Thỏa thuận là những vấn đề mang tính nội bộ và là tài liệu bí mật của từng TĐ. Tuy nhiên, dù được gọi với một tên nào đó, Thỏa thuận nội bộ của TĐ cũng đồng thời phải đáp ứng ba yêu cầu sau: Một là, không trái với những quy định khung trong các văn bản pháp luật về TĐKT và các văn bản pháp luật có liên quan. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, đáp ứng được yêu cầu nêu trên trở thành khó khăn lớn nhất. Bởi lẽ, luật chỉ quy định rất chung chung những vấn đề thuộc “khung pháp lý” của TĐ. Các quy định của pháp luật trong những lĩnh vực khác có liên quan chỉ phù hợp đối với DN hoạt động độc lập. Khi đã trở thành một thành viên của TĐ, dù với tư cách là Cty liên kết hay Cty con, các DN còn phải thực hiện những cam kết với TĐ. Trong khi đó, với mục tiêu tạo nên sức mạnh tổng hợp của TĐ, có thể có những cam kết vượt ra ngoài khuôn khổ của quy định pháp luật áp dụng cho DN độc lập. Chẳng hạn, khi tham gia TĐ, các DN thành viên phải chấp nhận việc điều chuyển vốn và/ hoặc tài sản từ nơi có vốn và/ hoặc tài sản tạm thời nhàn rỗi đến nơi đang thiếu; điều chuyển lao động, đặc biệt là lao động quản lý, công nhân kỹ thuật bậc cao từ Cty con về Cty mẹ hoặc từ Cty con này sang Cty con khác để thực hiện những dự án quan trọng của TĐ… Song, pháp luật về quản lý tài chính, kế toán, pháp luật về lao động lại chưa đặt ra những tình huống như vậy. Hai là, bảo đảm quyền kiểm soát của Cty mẹ đối với các Cty con. Quyền kiểm soát của Cty mẹ đối với các Cty con chỉ được thực hiện thông qua việc quy định quyền và nghĩa vụ của người đại diện phần vốn góp của Cty mẹ tại các Cty con thông qua các cuộc họp của HĐQT, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên. Trong khi đó, quy định về vấn đề quan trọng nêu trên tại Luật DN và các luật khác có liên quan lại rất mờ nhạt. Trong quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính và dự án đầu tư, có rất nhiều vấn đề phát sinh đòi hỏi phải giải quyết kịp thời nhằm ngăn chặn thất thoát tài sản. Nếu chờ đến khi họp thì có thể không thể khắc phục được hậu quả. Vì vậy, không ít trường hợp, chủ sở hữu Cty mẹ đã mất quyền kiểm soát tại các Cty con hoặc ngược lại, đã áp đặt việc kiểm soát thông qua mệnh lệnh hành chính đối với các Cty con. Hơn nữa, quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện phần vốn góp của Cty mẹ trong các Cty con hoặc Cty liên kết cũng còn quá chung chung. Năng lực và sự khách quan của người đại diện còn hạn chế cũng là khó khăn lớn trong việc thực hiện vai trò kiểm soát của Cty mẹ trong TĐ. Vì vậy, mở đầu cho quá trình chuyển đổi, Bộ Xây dựng đã xây dựng và ban hành Quy chế về người đại diện phần vốn của Nhà nước tại các Cty trong TĐ là hoàn toàn đúng hướng. Vấn đề quan trọng là nội dung và việc triển khai quy chế đó trong thực tiễn. Ba là, bảo đảm sự độc lập của các Cty con với tư cách là một pháp nhân. Cty mẹ và các Cty con trong TĐ đều là những pháp nhân. Một trong những điều kiện quan trọng để một tổ chức được coi là một pháp nhân theo Khoản 4, Điều 84, Luật Dân sự là “Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Vì vậy, mọi thỏa thuận nội bộ của TĐ phải tôn trọng sự độc lập của các Cty con. Tuy nhiên, cũng cần có những quy định nhằm ngăn ngừa tình trạng các Cty con lợi dụng tư cách là một pháp nhân độc lập để tiến hành những hoạt động ảnh hưởng tới lợi ích của Cty mẹ và phá vỡ những cam kết của TĐ. Ba yêu cầu nêu trên khi xây dựng một Thỏa thuận hoặc Quy chế nội bộ của TĐ trong nhiều trường hợp là trái chiều nhau. Vì vậy, Cty mẹ hoặc bất kỳ Cty con nào trong TĐ đều không thể thực hiện chức năng làm đầu mối xây dựng văn bản này. Thông thường, các TĐ phải nhờ đến sự hỗ trợ của một Cty tư vấn chuyên nghiệp, khách quan thực hiện nhiệm vụ này. Tùy theo quy mô và phạm vi hoạt động của từng TĐKT, nội dung của Thỏa thuận hoặc Quy chế nội bộ cũng rất khác nhau. Thông thường, một Thỏa thuận Quy chế nội bộ sẽ đề cập đến những nội dung chủ yếu sau: Hệ thống tổ chức của TĐ, bao gồm: Cty mẹ, Cty con, Cty liên kết, mối quan hệ giữa Cty mẹ với các Cty con và Cty liên kết; mối quan hệ giữa các Cty con với nhau; Người đại diện phần vốn góp của Cty mẹ tại các Cty con, Cty liên kết; Hội đồng Chủ tịch và Chủ tịch TĐ; Chiến lược phát triển của TĐ; Quản lý tài chính và kế toán trong tập đoàn; Quản lý lao động trong TĐ; Xây dựng và phát triển thương hiệu trong TĐ… Việc xây dựng bản Thỏa thuận hay Quy chế nội bộ nêu trên rất phức tạp. Song, phức tạp hơn là triển khai nó vào thực tiễn. Để triển khai những thỏa thuận đã được thống nhất vào thực tiễn điều kiện quan trọng bậc nhất là sự tôn trọng các cam kết. Trong khi đó, thiếu tôn trọng các cam kết lại đã và đang trở thành căn bệnh nan y của không ít DN, doanh nhân Việt Nam. (Kỳ sau: Quản trị tập đoàn kinh tế – những thách thức lớn) Luật gia Vũ Xuân Tiền |
Hình thành tập đoàn kinh tế theo mô hình Cty mẹ – Cty con: Những vấn đề cần nghiên cứu, trao đổi (bài 7)
182
previous post

